VU LAN – BÁO HIẾU
BÀI 1
- DẪN NHẬP
“Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ cha công dưỡng dục
Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương mẹ đức cù lao.”
Mỗi năm khi những làn gió thu se lạnh thổi về, báo hiệu một mùa Vu Lan nữa lại đến, lòng người con Phật bỗng bùi ngùi nhớ đến công ơn sanh thành dưỡng dục của hai đấng sanh thành. Một thứ công ơn sâu nặng mà ngôn từ chẳng làm sao diễn tả hết được. Bởi lẽ, ở đó không có sự cho đi và đòi lại, tất cả đều trôi chảy hồn nhiên, không có gì ngưng đọng để người cho và kẻ nhận phải lưỡng lự, ngập ngừng, hay tín toan, do dự. Phật dạy:“Trên thế gian này chẳng có thứ ân nghĩa nào sánh bằng ân nghĩa ấy”.
“Ân cha lành cao như núi thái,
Nghĩa mẹ hiền sâu tợ biển khơi,
Dù cho dâng trọn cuộc đời,
Cũng không trả hết ân người sinh ta.”
Công ơn cha mẹ thật lớn lao như thế, làm người không ai có thể phủ nhận ơn nghĩa ấy. Ngày xưa Tôn Giả Mục Kiền Liên tu hành chứng quả thánh, vẫn còn đau đáu trong lòng, ngậm ngùi, thương xót khi nghĩ đến mẹ bị đày đọa trong chốn địa ngục, đểcầu xin Phật tìm cách cứu vớt. Đức Phật vì lòng bi mẫn, đã chỉ dạy cho Ngài sắm sanh lễ vật cúng dường chư Tăng, vào ngày rằm tháng bảy, ngày Phật hoan hỷ, ngày chúng tăng Tự tứ. Nhờ năng lực đó mới giúp cho mẹ ông thoát khỏi cảnh khổ. Đây chính là ngày mang ý nghĩa vô cùng trọng đại. Ngày mà tất cả người con Phật nao lòng hướng về hai đấng sanh thành. Với tinh thần tri ân và báo ân, nên ngày lễ Vu Lan nghiễm nhiên đã trở thành ngày lễ truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam nói chung và người con Phật nói riêng.
Là người học Phật, chúng ta cần phải hiểu rõ ý nghĩa của ngôn từ cao quí ấy, cũng như ân đức cao vời của cha mẹ, để vận lòng thành noi gương hiếu của các bậc tiền bối, biết báo đáp ơn nghĩa thiêng liêng đó đúng với chánh pháp. Bởi lẽ: “Thiên Kinh vạn quyển, Hiếu nghĩa vi tiên”.
Vậy để hiểu rõ hơn về ý nghĩa của Vu Lan Báo Hiếu chúng ta cùng tìm hiểu qua nội dung sau.
- NỘI DUNG
- ĐỊNH NGHĨA
Vu Lan: là gọi tắt, nói cho đủ là Vu Lan Bồn, nguyên âm tiếng Phạn là Ulumbana, hay Avalamba, Trung Hoa dịch là “giải đảo huyền” hay “cứu đảo huyền”; nghĩa đen là cởi trói người bị treo ngược; nghĩa bóng là cứu vớt những kẻ đau khổ thống thiết đang bị đọa đày trong cảnh khổ.
Báo hiếu:Báo là báo đáp, báo trả, thù đáp lại.
Hiếu: Tàu dịch là thảo, con thờ cha mẹ hết lòng gọi là thảo.
Như vậy, ý nghĩa Vu Lan Báo Hiếu là nói lên bổn phận người con phải biết báo đáp công ơn cha mẹ. Đối với cha mẹ còn sống thì phải hết lòng hiếu thảo, cha mẹ đã qua đời phải thờ kính, tìm cách cứu vớt cho cha mẹ thoát khỏi cảnh khổ trong Tam đồ.
- NGUYÊN NHÂN PHẬT NÓI PHÁP VU LAN BỒN
Nguyên nhân Phật nói pháp Vu Lan bồn là do Tôn giả Mục Kiền Liên. Ngài có bà mẹ tên là Thanh Đề, khi sanh tiền bà không có niềm tin Tam Bảo, hủy báng Tam Bảo, mắng nhiếc chư Tăng, sát sanh hại vật, tham lam bỏn xẻn, nên sau khi chết, bà bị đọa vào địa ngục làm quỉ đói. Bấy giờ Ngài Mục Kiền Liên tu hành chứng quả thánh, được suy tôn là thần thông đệ nhất trong thập đại đệ tử của Phật. Vì thương xót mẹ, không biết đọa lạc nơi đâu, Ngài dùng thiên nhãn quan sát trong các cõi âm, thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỷ, chịu khổ đói khát không cùng. Ngài bèn dùng thần thông xuống cõi ngạ quỷ, bưng cơm dâng mẹ. Do vì đói khát từ lâu nên mẹ Ngài vừa thấy bát cơm, lòng mừng khôn xiết, tâm tham lam bỏn xẻn khởi lên, bà vội lấy tay trái che đậy, tay phải bốc cơm ăn, nhưng than ôi!
“Cơm chưa đưa đến miệng bà
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu”.
Tôn Giả nhìn thấy cảnh tượng mẹ đang chịu khổ đau, lòng càng ưu tư, xót xa quặn thắt. Trở về cầu xin Phật chỉ dạy phương pháp cứu mẫu thân. Đức Phật dạy rằng: “Mẹ ông vì nghiệp quả quá sâu dày, lòng hiếu thảo của ông dù có cảm động đến Trời, Rồng, Quỷ thần đi nữa cũng không sao cứu được, mà phải nhờ đến sức chú nguyện của mười phương chúng Tăng, mới có thể cứu mẹ ông ra khỏi cảnh khổ. Vì vậy, đến ngày rằm tháng bảy, là ngày Tự Tứ của chư Tăng, ông hãy chí thành cúng dường lễ bái, cầu chư Tăng hiệp lực, dùng năng lực thanh tịnh của giới đức và lòng từ bi quảng đại, đưa tư tưởng lành xuống cõi âm, cho mẹ ông tiếp nhận sức mầu, tâm thức khai mở, bỏ hết tánh tham lam ích kỷ, thì mới mong chuyển nghiệp.”
Mục Kiền Liên nghe Phật dạy, đến ngày rằm tháng bảy là ngày Tự tứ của chư Tăng, Ngài sắm sửa thức ăn, đèn, sáp, hương hoa…lập hội Vu Lan, thiết trai cúng dường. Do nhờ uy lực thiền định của chư Tăng trong ba tháng an cư và lòng từ bi tế độ xuất phát từ biển tâm thanh tịnh của mười phương Tăng, đã tạo nên pháp giới an lạc bao trùm lên ba cõi, giúp cho ba cõi được an vui, giải thoát. Nên nói “Đức trọng quỷ thần kinh” là vậy. Mẹ ngài Mục Kiền Liên đón nhận sức chú nguyện này của mười phương Tăng, và công đức cúng dường từ lòng chí thành của Mục Kiền Liên, bà sinh khởi niệm thiện, từ bỏ tâm tham lam bỏn xẻn. Sau đó thoát được kiếp quỷ đói, sanh lên cõi trời. Không riêng gì bà Thanh Đề, mà cha mẹ nhiều kiếp của Ngài cũng được sanh lên thiên giới.
Sau khi mẫu thân được thoát ly cảnh khổ, tôn giả Mục Kiền Liên hết sức vui mừng liền bạch Phật rằng:
“Mẹ con nhờ sức Thánh tăng khỏi nàn
Lại cũng nhờ oai thần Tam bảo
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra
Như sau đệ tử xuất gia
Vu Lan bồn pháp dùng mà độ sanh
Độ cha mẹ còn đương tại thế
Hoặc bảy đời có thể đặng không?”
Phật dạy: “Hay thay Mục Kiền Liên, nếu các Tỳ Kheo, Tỳ kheo ni, Quốc vương, Thái tử…cho đến nhân dân, muốn báo đền ơn cha mẹ hiện tại và cha mẹ bảy đời, ngày rằm tháng bảy, là ngày Phật Đà hoan hỷ, ngày tự tứ của chư Tăng, hãy thiết lễ Vu Lan cúng dường, nhờ công đức thanh tịnh của chư Tăng chú nguyện, cha mẹ hiện tiền được tăng long phước thọ, cha mẹ quá khứ thoát khỏi cảnh khổ đau, sanh về cõi lành”.
Từ đó về sauđệ tử của Phật, từ tại gia đến xuất gia, đều vâng lời Phật dạy, mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, sắm sửa trai nghi, chí thành dâng cúng chư Tăng, để cầu nguyện cho cha mẹ hiện tiền cũng như nhiều đời được nương đây mà ân triêm phước lạc.
Truyền thống Vu Lan Báo Hiếu cũng bắt nguồn từ đó và ăn sâu vào tâm thức người Việt. Hiện nay, truyền thống này được người con Phật thực hiện một cách trang trọng, quí kính vào mỗi độ thu về. Tuy nhiên, để việc làm báo ơn, đáp nghĩa đem lại kết quả tốt đẹp hơn và lợi ích thiết thực hơn, thì chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa đích thực của việc báo hiếu theo tinh thần Phật giáo.
III.Ý NGHĨA CỦA SỰ BÁO HIẾU ĐÚNG NGHĨA
Đạo Phật rất quan tâm đến vần đề hiếu đạo, lấy hiếu làm căn bản. Trong các kinh điển, Đức Phật luôn đề cập đến công ơn cha mẹ, bổn phận làm con phải đền ơn đáp nghĩa một cách thống thiết.
Trong Kinh A Hàm Đức Phật dạy: “Nuôi dưỡng cha mẹ đừng cho thiếu thốn, làm việc gì cũng trình cho cha mẹ biết trước, cha mẹ làm gì con phải thuận theo không trái ý, không dứt nghiệp chánh của cha mẹ.”
Kinh Tứ Thập Nhị Chương: “Phàm người phụng thờ quỉ thần, không bằng phụng thờ cha mẹ. Cha mẹ là vị thần tối thượng.”
Trong kinh Phạm Võng,khi Đức Phật mới thành đạo, Ngài bắt đầu kiết “Bồ tát giới” Ngài dạy: “Hiếu thuận với cha mẹ, sư tăng, Tam Bảo. Hiếu thuận là pháp chí đạo. Hiếu gọi là giới, cũng gọi là cấm ngăn.”
Hiếu thuận với cha mẹ thời phải dứt những điều ác ở thế gian và làm tăng trưởng những điều lành. Hiếu thuận với Sư Tăng, Tam Bảo thời phải dứt điều ác thế gian và xuất thế gian, làm sanh trưởng điều lành về thế gian và xuất thế gian cho đến viên mãn thành tựu. Một người sống có hiếu thì đó là giữ giới. Vì thế Đức Phật đã xếp Hiếu ngang hàng với Giới.
Nghiên cứu lời Phật dạy về báo hiếu cho ta thấy rằng: Bước đầu Ngài dạy cách báo hiếu theo thế gian, là phải chăm sóc, nuôi dưỡng, phụng thờ hiếu kính cha mẹ. Từ cách báo hiếu theo thế gian, rồi Ngài đề cập đến đạo lý nhân quả, tu tâm dưỡng tánh, giữ gìn giới luật, bỏ ác, làm lành, dẫn đến xuất thế gian thành Phật đạo mới trọn vẹn tâm hiếu.
Có thể nói, khi người ta diễn tả, hay phơi bày về Hiếu thì không có bút mực nào lột tả hết được. Bởi chữ Hiếu mang ý nghĩa rộng rãi, bao trùm tất cả cử chỉ, hành vi, ngôn ngữ, nhân cách, đạo đức xuất phát từ con người. Trả hiếu có hai cách như sau:
- Ý nghĩa báo hiếu theo thế gian:
Khi nói đến việc báo hiếu theo thế gian, thì chúng ta không thể không nhắc đến công ơn sanh thành dưỡng dục, gian nan, vất vả của người.
Trong kinh Báo Đáp Công Ơn Cha Mẹ, Đức Phật diễn tả nỗi khổ tâm của người mẹ, từ khi mang thai cho đến khi sanh nở, là một ấn tượng sâu sắc khó quên trong mỗi chúng ta.
“Tháng đầu thai đậu tợ sương
Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường.”
Rồi đến lúc thai bào đủ tháng, sanh con ra được vuông tròn, thì nỗi lo âu khác lại chất chồng lên tâm hồn người mẹ. Nào sợ con bệnh, sợ con khóc, sợ con chậm lớn .v.v…
“Con đau ốm tức thì lo chạy
Dầu tốn hao cách mấy cũng đành
Khi con căn bệnh đặng lành
Thì cha mẹ mới an thần định tâm.”
Bấy nhiêu đó sao hết được công ơn cha mẹ, chúng ta có thể quên, có thể từ bỏ nhiều thứ trong đời, nhưng không được quyền quên ân tình của cha mẹ, không được quyền từ bỏ hạnh phúc được làm con. Cho dù ta có khôn lớn trưởng thành như thế nào trong cuộc đời, đứng trước tình thương bao la rộng lớn ấy, vẫn luôn nhỏ bé, dại khờ.
“Biển rộng lòng mẹ bao la
Đưa con từng bước đi qua đường đời
Công danh con được rạng ngời
Ơn dày cha mẹ biển trời cho con”.
Vì thế, phải hết lòng hiếu thảo với cha mẹ, chăm sóc cho cha mẹ chu đáo, từng miếng ăn, thức uống,… lại phải lo tu tập, làm việc thật tốt và luôn phấn đấu nỗ lực trên đường đời để làm rạng danh cha mẹ.
Ở Trung Hoa, có vua Văn Đế là một tấm gương chí hiếu. Chuyện kể, khi Thái Hậu bị bệnh suốt ba năm liền, ngoài những buổi lâm triều, vua vẫn mặc long bào uy nghi đi vào tận bên giường mẹ đứng hầu, quên cả ăn ngủ, đêm ngày túc trực canh chừng, chờ đợi lời sai bảo của mẹ.
Mỗi khi ngự y dâng thuốc trị bệnh, vua đỡ lấy nếm thử trước, xem mùi vị thế nào để chia sẻ nổi đắng cay cùng mẹ. Mẹ ngài thấy vậy thương xót khuyên rằng: “Trong cung thiếu gì người, con gọi cung nữ đến chăm sóc cho mẹ cũng được, con không nên vất vả vì mẹ như vầy.” Nghe mẹ nói vậy vua quỳ xuống thưa: “Mẹ bệnh mà con không tự mình chăm sóc cho mẹ được chẳng may mẹ mất thì con đâu còn kịp để đền đáp công ơn của mẹ.” Các quan trong triều ai cũng biết vua Văn Đế là bậc hiếu tử, nên mọi người ai cũng kính nể và học theo gương Ngài. Nhờ vậy, vua lãnh đạo đất nước được thái bình thịnh trị.
Qua đó chúng ta thấy rằng: Việc hiếu thảo là nghĩa cử cao quí xuất phát từ đáy lòng, chứ không phải việc làm miễn cưỡng. Như trường hợp vua Văn Đế, ngài thấu hiểu rằng, nếu muốn báo ân cha mẹ thì phải tự tay mình chăm sóc, còn mướn người khác phục vụ thì đâu còn tình nghĩa gì. Đó là mẫu người đáng kính, đáng cho chúng ta noi theo.
Không những hiếu thảo lúc cha mẹ già yếu bệnh tật, mà trong cuộc sống hằng ngày, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, mỗi hành động đều thể hiện tinh thần hiếu đạo. Một người con nếu sống bê tha, ham chơi bời theo bạn xấu, để thiên hạ nguyền rủa đó chính là bất hiếu, anh em trong gia đình sống không hòa thuận đó cũng là bất hiếu. Nói chung, những việc làm nào dù lớn hay nhỏ mà đưa đến nỗi lo âu, phiền muộn cho cha mẹ đều là bất hiếu.
Cho nên, khi thực hành hạnh hiếu người Phật tử phải thực hiện bốn điều sau đây:
- Hiếu dưỡng: Là cung cấp thuốc men, chỗ ở, vật ăn, thức uống, không để cho cha mẹ phải đói khát thiếu thốn. Chăm sóc cha mẹ khi già yếu, đau bịnh.
- Hiếu hạnh: Là phải sống có đức hạnh, đối với cha mẹ phải giữ thái độ, hành vi, ứng xử, cung kính, lễ phép, nhẹ nhàng, lựa ý, lựa lời làm vui lòng cha mẹ. Không có thái độ bất kính.
- Hiếu tâm: Là sự quan tâm, nghĩ ngợi hết lòng lo cho cha mẹ, chân thật, kính trọng đối với cha mẹ biểu hiện sự hiếu kính từ đáy lòng.
- Hiếu đạo: Là đối với cha mẹ không có niềm tin Tam Bảo, khuyến khích cha mẹ qui y Tam Bảo, ăn chay, niệm Phật, làm lành, lánh dữ. Đối với mình phải tu tập tinh tấn, đàng hoàng, để hướng dẫn cha mẹ cùng tu tập, gây tạo phước lành.
Đó là những điều căn bản mà một người con hiếu phải thực hiện cho được đầy đủ, nếu thiếu một trong những điều ấy thì sự báo hiếu chưa được tròn đầy.
Người Phật tử hiếu dưỡng cha mẹ không phải chỉ lo về phần vật chất, mà quan trọng hơn nữa là về phần tinh thần, tâm linh của cha mẹ. Vậy nên, báo hiếu theo thế gian, là phải đầy đủ hai mặt vật chất và tinh thần. Về mặt vật chất là phải phụng dưỡng cha mẹ, mặt tinh thần phải giữ gìn đạo đức, ăn ở nhân từ, nỗ lực tu tập, để hướng dẫn cha mẹ tu theo mới xứng đáng là hiếu tử chân chính theo thế gian pháp.
Đại sư Ấn Quang dạy: “Cần phải làm tròn bổn phận làm người, rồi mới có thể nói đến việc học Phật. Nếu đối với việc hiếu đạo, trung tín, lễ nghĩa, liêm sĩ không làm được một việc gì, thì dù suốt ngày thờ Phật cũng vô ích, uổng công. Phật giáo bao quát thế gian và cả xuất thế gian, nên đối với người làm cha làm mẹ, thì nói đến lòng từ ái, đối với người làm con, làm cháu, thì nói đến việc hiếu thảo, dạy mọi người phải làm tròn bổn phận của mình, rồi sau mới có thể tu pháp xuất thế gian.” (Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục )
Ngoài việc báo hiếu theo phương diện thế gian, còn một phương pháp báo hiếu cao cả nhất mà không có sự báo hiếu nào ở thế gian sánh bằng. Đó là báo hiếu xuất thế gian.
- Ý nghĩa báo hiếu xuất thế gian:
Ở đời người ta thường quan niệm người xuất gia là bất hiếu, vì không sống gần gũi cha mẹ để săn sóc cho cha mẹ, lại không có vật chất để giúp đỡ cha mẹ, cũng không nối dõi tông đường, nên đi tu là bất hiếu.
Như quan niệm của Nho giáo cho rằng: Phật giáo là không chủ trương hiếu hạnh, đa phần là bất hiếu. Họ nói rằng: “Người đi tu là không nối dõi tông đường đó là bất hiếu thứ nhất. Thứ hai là thân thể hình hài cha mẹ sinh ra, không được làm tổn hại.Vậy mà tu sĩ Phật giáo đi tu cạo sạch tóc, làm tổn thương hình hài cha mẹ sinh ra là bất hiếu.”
Quan niệm của Mâu Tử trong “Lý Hoặc Luận” đã luận giải những điều đó cho chúng ta thấy: “Nếu làm được đức lớn để cứu giúp cha mẹ thì không nên câu nệ việc nhỏ”. Điều này đã nói lên con đường xuất thế của Đạo Phật. Mục đích hiếu hạnh của Phật giáo không phải là lý thuyết, hay hình thức bên ngoài, mà đề cao hành động và thái độ sống, để kết nối sự yêu thương và hướng con người đi đến sự bình an nội tại, đạt đến hạnh phúc chân thật trong cuộc sống. Thế thì việc xuất gia, cạo bỏ râu tóc, sống đời sống không nhà của tu sĩ Phật giáo, không chỉ hoàn thiện bản thân mà còn có khả năng báo hiếu cho cha mẹ, hướng dẫn cha mẹ sống đúng chánh pháp, đưa đến an lạc, hạnh phúc.
Trong kinh Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, có hai hạng người không trả ơn được, đó là cha và mẹ. Nếu một bên vai trái cõng mẹ, vai phải cõng cha, làm vậy suốt cả trăm năm cho đến 100 tuổi, như vậy này các Tỳ kheo cũng chưa làm đủ hay trả đủ cho mẹ và cha, nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội và cho dù ở đấy cha mẹ có đại tiện, tiểu tiện, dù vậy này các Tỳ kheo, cũng vẫn chưa làm đủ, hay trả đủ cho cha và mẹ…”
Vậy báo hiếu theo Đức Phật là thế nào đây? Ngài dạy: “Này các Tỳ kheo, những ai đối với cha mẹ không có lòng tin Tam Bảo thì khuyến khích cho có lòng tin Tam Bảo, đối với cha mẹ sống tà giới, thì khuyến khích an trú vào chánh giới, đối với cha mẹ có tâm tham thì khuyến khích an trú vào bố thí, đối với cha mẹ theo ác tuệ thì khuyến khích an trú vào trí tuệ. Cho đến như vậy, là làm đủ và đáp đền ơn đủ cho mẹ và cha.” (Tăng Chi Bộ I)
Như gương Ngài Mục Kiền Liên, Ngài Xá Lợi Phất là những người con chí hiếu, theo tinh thần xuất thế.
Trong sử kể về Ngài Xá Lợi Phất rằng: Từ khi xuất gia trở thành đệ tử của Phật, Ngài tinh tấn nỗ lực tu tập và trở thành bậc tướng quân chánh pháp, là người có trí tuệ siêu việt nhất trong hàng Tăng chúng. Càng đạt đến quả vị cao, Ngài càng nghĩ đến mẹ hiền, ngày đêm thao thức để tìm cách đưa mẹ trở về với chánh pháp. Khi biết rằng mẹ mình là người không có lòng tin Tam Bảo, mà tâm lại tà kiến, sai lệch.
Vả lại Ngài tự nghĩ:“Mình đã bao phen dẫn dắt cả nhân loại lẫn chư thiên vào Tam bảo chứng quả Thánh, chẳng lẽ mình không tẩy trừ được tư kiến sai lầm của chính mẹ mình hay sao?”. Nên Ngài quyết định xin Đức Thế Tôn trở về để dẫn dắt mẹ, báo hiếu cho mẹ trước khi nhập Niết Bàn. Nhờ lòng hiếu thảo cao quí đó mà Ngài đã đưa mẹ Ngài vào chánh đạo. Khi bà phát khởi niềm tin đối với Tam Bảo tuyệt đối, thì liền đắc quả Dự Lưu (Tu Đà Hoàn). Đến đây, Ngài mãn nguyện mỉm cười thật nhẹ rồi thanh thản nhập Niết Bàn.
Chính lòng hiếu thảo của Ngài Xá Lợi Phất đã góp phần rất lớn trong việc thành tựu phẩm chất, đạo đức và trí tuệ của một bậc Thánh ở nơi Ngài. Lòng hiếu thảo rất quan trọng đối với mỗi người. Tâm hiếu là tâm tu căn bản, là cái nhân chủ đạo, để từ đó nảy nở thiện tâm và giải thoát thiện tâm.
Đức Phật cũng là tấm gương sáng ngời và tiêu biểu cho tinh thần hiếu đạo ấy. Ngài đã từng đi bộ vượt qua ngàn dặm đường nguy hiểm để trở về thăm Phụ hoàng khi vua Tịnh Phạn bị bịnh nặng, và thuyết pháp khiến cho vua cha dứt sạch đau khổ buồn rầu. Khi vua băng hà, Ngài tự mình khiêng một góc quan tài của Phụ vương đến nơi hỏa táng. Đức Thế Tôn đã lên cung trời Đao Lợi để thuyết pháp cho Mẫu hậu. Với kế mẫu Ngài luôn tỏ lòng từ hiếu.
Bên cạnh thể hiện chữ hiếu theo thường pháp, lòng từ hiếu của Phật còn nhằm hướng thân Phụ và thân Mẫu hiểu và hành chánh pháp, độ cả hai chứng đắc Thánh quả. Người xưa nói: “Nhất nhơn thành đạo, cửu huyền thăng”. Một người tu hành thành tựu đạo quả, không những cứu vớt được cha mẹ hiện tiền, mà chín đời ông bà cha mẹ đều được siêu thoát. Như tích của Thiền sư Tông Diễn (Hòa Thượng Cua) – một vị cao Tăng Việt Nam đã cứu Phật pháp thoát khỏi ách nạn vào thời Hậu Lê.
Trong sử kể rằng: Khi mẹ sư mất, sư đến bên quan tài của mẹ giữa hai hàng Tăng chúng, cầm tích tượng, trầm tỉnh nói: “Như lời Phật dạy, một người tu hành ngộ đạo, cha mẹ được sanh thiên, nếu lời này không ngoa xin cho chiếc quan tài này bay lên hư không”. Nói xong sư liền gõ tích tượng ba cái, chiếc quan tài từ từ bay lên hư không và nứt ra nhiều mảnh. Điều đó đã chứng minh cho sự báo hiếu cao thượng của người xuất gia.
Cho nên sự báo đáp của người xuất gia, ở thế gian không có sự báo đáp nào sánh bằng. Lời nhắn nhủ của mẹ Ngài Lương Giới Động Sơn năm nào, cũng là lời nhắc nhở của bậc làm cha làm mẹ đối với chúng ta hôm nay. “Mẹ không mong con như Vương Tường nằm giá, Đinh Lan khắc cây, chỉ mong con như Tôn giả Mục Liên tu hành chứng quả, độ mẹ thoát khỏi trầm luân, tiến lên Phật quả, nếu mẹ không như vậy e phải có tội.”
Người cha, người mẹ hiểu được đạo lý thì họ không bao giờ trách móc khi con mình bỏ cha, bỏ mẹ đi tu. Ngược lại, luôn hạnh phúc khi thấy con mình tu hành đàng hoàng, chơn chánh. Vì thế, chúng ta phải nỗ lực tấn tu đạo nghiệp, đi trọn đường đạo, thành tựu đạo quả, để giải thoát cho mình và cứu khổ cho cha mẹ hiện tiền cũng như quá vãng. Được vậy mới mong đền đáp công ơn trời bể của người.
Như thế, người xuất gia đâu phải là bất hiếu như quan niệm của Nho giáo, hay cái nhìn thiển cận của một số người không thấu hiểu đạo hiếu trong nhà Phật. Theo Đức Phật, hiếu chính là một trong những đức tính cao cả của một vị Phật. Thế nên, dù là xuất gia hay tại gia chúng ta đều phải sống hiếu đạo.
- Báo đáp Tứ Trọng Ân:
Dưới cái nhìn của Đức Phật, hiếu không chỉ phạm vi con cháu đối với ông bà, cha mẹ mình, mà còn là mối quan hệ tốt giữa các thành phần trong xã hội. Thế nên, người con Phật phải có tinh thần hiếu đạo đối với “Tứ Trọng Ân”.Đó là ân cha mẹ, ân Tam Bảo, ân chúng sanh và ân tổ quốc.
- Ân cha mẹ:
Chuyện kể, “Có một bà mẹ dẫn con đi dạo, không may gặp trời mưa bão, tuyết đóng băng, lúc đó bà mẹ sợ đứa con lạnh quá sẽ không sống nỗi, bà cởi hết áo trên mình để đắp cho con, cuối cùng đứa con được sống còn bà vì lạnh quá không chịu nỗi phải bỏ mạng. Khi mọi người tìm thấy, mới biết bà chết vì hy sinh cho con, để con được sống….”
“Ôi tình mẹ thân thương cao đẹp quá
Như suối nguồn mát dịu giữa trưa hè
Như gió chiều nhè nhẹ trên cành tre
Như dòng nước của đại dương vô tận.”
Thật vậy, khi nói đến công ơn cha mẹ là nói đến tình cảm thiêng liêng, nghiêm từ, ngọt ngào, mát mẻ mà trong đời không có thứ tình thương nào có thể sánh được. Chính tình thương cao cả ấy làm cho người quên đi những gì khó nhọc, những gì nhơ bẩn, cũng như không bận tâm đến tội lỗi, để hy sinh thân mình đem đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho con.
“Công cha đức mẹ cao dầy
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân”.
Vì thế, đối với cha mẹ, người con phải biết cung phụng, nuôi dưỡng, chăm sóc từ miếng ăn, thức uống, áo quần, giường chiếu, không để cho cha mẹ thiếu thốn. Thay cha mẹ gánh vác những công việc nặng nhọc. Khi cha mẹ mù lòa, đau bệnh phải hết lòng chăm sóc…
Tuy nhiên, để có của cải, vật chất phụng dưỡng cha mẹ, chúng ta phải sáng suốt, ý thức được việc làm của mình, làm những việc chơn chánh, có đạo đức. Chứ không phải vì muốn báo hiếu cha mẹ, nhưng nghèo quá rồi sanh tâm gian tham, trộm cắp, sát nhân, hại vật, để có tiền của giúp cho cha mẹ. Như vậy, không phải là báo hiếu mà đó chính là bất hiếu, vì đã tự mình gây nghiệp ác, làm liên lụy đến cha mẹ
Muốn đền đáp công ơn cha mẹ ta phải sống có đạo đức, làm ăn lương thiện, không làm những việc bất thiện. Một người con nếu sống bê tha, ham chơi bời theo bạn xấu, đam mê cờ bạc, để thiên hạ nguyền rủa đó chính là bất hiếu, anh em trong gia đình sống không hòa thuận nhau đó cũng là bất hiếu. Nói chung, những việc làm nào dù lớn hay nhỏ mà đưa đến nỗi lo âu, phiền muộn cho cha mẹ đều là bất hiếu.
- b. Ân Tam Bảo:
Ngoài ơn cha mẹ, ơn thầy cô truyền dạy chúng ta những kiến thức ở thế gian, từ lúc còn thơ bé đến khi thành người hữu dụng;người tu Phật còn có một ơn nghĩa xuất thế, đó là chư Phật, Bồ tát và Thầy Tổ. Chính các Ngài là bậc có trí tuệ và đầy đủ năng lực, giúp chúng ta có cái nhìn chánh kiến, giúp ta đẩy lùi vô minh, tẩy trừ tập khí phiền não, nuôi lớn giới thân huệ mạng.
Tuy cha mẹ là người sanh thân ta, nhưng nếu không có Phật ra đời cứu khổ cho chúng ta, không có Thầy Tổ dày công dìu dắt chỉ dạy thì chúng ta sẽ bị chìm đắm trong vô minh đêm tối. Cho nên, đối với người học Phật, chúng ta phải mang nặng ơn Tam Bảo. Vì chỉ có Tam Bảo mới có đủ năng lực dẫn dắt ta đi trên đường giác ngộ, đưa ta ra khỏi bể khổ trầm luân. Và người trực tiếp chỉ dạy chúng ta ngày nay đó là những bậc sư trưởng.
Sự hy sinh của bậc ân sư đối với chúng ta cao cả vô cùng, như tình thương mẫu tử che chở đàn con thơ dại. Ân đức ấy bao giờ đền đáp trọn. Bổn phận người học đạo phải tinh tấn tu tập, trau dồi Giới, Định, Tuệ, để trở thành người hữu ích cho xã hội, làm rạng rỡ cho đạo pháp. Đó là báo đáp ơn Tam Bảo.
- Ân chúng sanh:
Đối với chúng sanh, ta cần phải quán chiếu mới thấu triệt. Thân chúng ta từ khi sanh ra và lớn lên là nhờ công ơn của nhiều người. Từ người nông phu cho lúa gạo, đến người thợ dệt cho vải vóc; rồi bạn bè, láng giềng giúp đỡ ta trong cuộc sống. Nhìn rộng hơn, ta sẽ thấy sự liên hệ hỗ tương giữa mình và vũ trụ vạn hữu. Đây là pháp trùng trùng duyên khởi mà Đức Phật đã dạy. Cho nên, không những nhớ ơn chúng sanh hữu tình, mà còn mang ơn nặng của vạn vật vô tình nữa.
Vào thời Đức Phật, một vị Tỳ kheo ngủ dưới gốc cây xong rồi đứngdậy ra đi, cũng phải nhớ ơn cây đã tỏa bóng mát che nắng cho mình. Huống gì hằng ngày nước chúng ta uống, cơm chúng ta ăn, không khí chúng ta thở… Mỗi mỗi chúng ta đều thọ nhận, để nuôi dưỡng thân mạng. Ơn ấy không lớn lao sao?
“Tay nâng bát cơm đầy
Tôi thấy rõ vạn vật
Đang cùng tôi góp mặt
Để nuôi dưỡng thân tôi”.
(Hiểu Về Trái Tim)
Vậy nên, khi có dịp cứu người hoạn nạn, giúp người nghèo khó, chúng ta nên hết lòng giúp đỡ. Đối với vạn vật phải biết thương yêu, bảo vệ, giữ gìn. Tục ngữ có câu:
“Uống nước nhớ nguồn
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”
Đây chính là suối nguồn từ bi, là nền tảng xây dựng nhân cách con người, cũng là cách đáp đền ơn nghĩa đối với chúng sanh.
- d. Ân Tổ quốc:
Nếu không có sự bảo hộ của nhà nước, của pháp luật, không có những anh hùng, chiến sĩ hy sinh quên mình vì nước, vì dân, không có binh phòng, vệ phòng ngày đêm giữ gìn an ninh trật tự và đề phòng giặc ngoại xâm liệu chúng ta có yên ổn sinh sống và tu hành được hay không? Biết bao xương máu ông cha ta đã rơi, hòa quyện vào lòng đất mẹ, nung nấu chí kiên trung bất khuất cho dân tộc Việt Nam, cho tổ quốc thân yêu, thà chết không chịu làm nô lệ.
“Việt Nam ơi! Ngàn gương xưa còn đó
Con lớn lên mang dòng máu Lạc Hồng
Con lớn lên hồn nặng trĩu non sông
Con lớn lên tim trĩu tình Tổ quốc.”
Hôm nay, đất nước được hòa bình, xã hội yên vui, chúng ta được sống an ổn, yên tâm tu học, hành đạo, ơn ấy thật lớn lao, chúng ta làm sao quên được. Bởi vậy, dù ta sống ở địa vị nào, tôn giáo nào, hay quốc độ nào, tinh thần đền ơn đáp nghĩa đối với Tổ quốc không thể nào quên.
Qua đó, ta thấy việc đền ơn, đáp nghĩa trong Đạo Phật mang ý nghĩa vô cùng rộng lớn. Không phải báo hiếu chỉ với người thân, hay với cha mẹ đời này, hoặc riêng với loài người, mà đối với tất cả loài hữu tình, vô tình, với chúng sanh vô lượng kiếp chúng ta đã mang ơn, vì thế phải tìm cách báo đáp.
IV.HIẾU LIÊN HỆ ĐẾN NHÂN QUẢ
Thực thi hạnh hiếu trong mỗi phút, mỗi giây, trong từng lời nói, cử chỉ, hành động, trong từng tâm niệm, phải luôn luôn hướng về cha mẹ, hiếu kính cha mẹ, đem đến niềm vui cho cha mẹ. Đó chính là việc cần phải làm đối với người con hiếu thảo, cũng là gieo nhân tốt cho mình và là tấm gương sáng cho con cháu mình noi theo. Bởi gieo nhân gì thì gặt quả đó.
Kinh Nhân Quả Phật dạy:
“Rằng ai muốn biết nhơn xưa
Xét xem hoàn cảnh bây giờ chịu đây
Muốn biết quả báo sau này
Xét điều tội phước ta đây đang làm”.
Nếu như hiện tại ta sống hiếu thảo với cha mẹ, thì sau này con cháu ta sẽ hiếu thảo với ta. Ngược lại, ta sống bất hiếu, nghỗ nghịch với cha mẹ thì đừng mong con cháu có hiếu với mình.
Thuở xưa có hai vợ chồng nọ sinh được một cậu con trai, nên rất cưng chiều, nhưng gia đình thì nghèo thiếu, lại phải nuôi cha già yếu. Một hôm người vợ bàn với chồng rằng: “Cha nay đã già yếu, ăn không ngồi rồi, không làm được gì, lại còn sanh tật, anh nên chở cha vào rừng bỏ, để tiền lo cho con ăn học, sau này nó thành tài thì mình được nhờ.”
Nghe vợ nói thế, người chồng thương cha không nỡ làm như vậy. Thấy chồng im lặng, người vợ lại nói: “Nếu anh không giải quyết chuyện của cha, em sẽ bỏ nhà đi cho anh vừa lòng.”
Người chồng cuối cùng cũng xiêu lòng, đi mua gỗ về đóng xe để chở cha vào rừng bỏ, đứa con thấy vậy liền hỏi: “Bố đóng xe làm gì vậy bố?”
Người bố trả lời :“Này con, Ông nội nay đã già, lú lẫn, đụng đâu tiểu vãi đó… nên bố đóng xe để chở ông nội vào rừng bỏ”.
Đứa con nói: “Bố ơi! Bố bỏ ông nội nhớ đem xe về cho con”
– Đem về chi vậy con?
– Để khi nào bố già con sẽ chở bố vào rừng bỏ như bố bỏ ông nội vậy.
Nghe con nói người cha giật mình, thức tỉnh, tự nghĩ nếu mình bất hiếu với cha thì sau này phải trả cái quả đó. Rồi ông nói với con rằng: “Bố chỉ nói chơi, con đừng làm như vậy tội lỗi lắm, bố đóng xe để chiều chiều đẩy ông nội đi dạo mát, cho ông nội vui vẻ, sống lâu với bố con mình.”
– Vậy thì con sẽ giữ xe lại, sau này bố già con chở bố đi chơi bố nhé.
– Liền khi đó anh đến nói với vợ rằng: “Nếu nàng thấy ở được thì cùng ta lo trả hiếu, bằng không cứ tùy ý ra đi.”
Người vợ sợ chồng đuổi nên không dám khởi ác ý với cha chồng nữa.
Chuyện kể trên nghe qua tưởng như chuyện đùa, nhưng thật đó là một bài học đạo lý, nó hàm chứa ý nghĩa sâu sắc của giáo lý nhân quả nghiệp báo.
Cổ đức có câu:
“Nếu mình có hiếu mẹ cha
Thì con có hiếu với ta khác gì
Nếu mình ăn ở vô nghì
Đừng mong con hiếu làm gì uổng công.”
Thế nên, một khi làm việc gì ta phải suy nghĩ cho chín chắn. Người xưa có câu: “Phàm làm việc gì phải nghĩ đến hậu quả của nó.”
Hơn nữa! Hiếu thảo là một việc làm cao thượng và trách nhiệm thiêng liêng mà mỗi người sống trong cuộc đời không thể chối bỏ. Vả lại! Thực hành hạnh hiếu sẽ đưa đến nhiều lợi ích cho bản thân trong hiện tại và tương lai.
- LỢI ÍCH CỦA VIỆC BÁO HIẾU VÀ TAI HẠI CỦA SỰ BẤT HIẾU
Những trang sử ca ngợi về những người con có hiếu cũng nhiều, nhưng trong sách sử, trên báo chí đưa tin về những người con bất hiếu cũng không phải ít.
Có một lần, Đức Phật lấy một ít đất để trên ngón tay rồi hỏi các Thầy Tỳ kheo: “Đất trên đầu ngón tay ta nhiều hay đất trên quả địa cầu này nhiều?”
– Bạch Thế Tôn! “Đất trên đầu ngón tay Như Lai so với đất trên quả địa cầu thì quá ít”.
Phật bảo:“Cũng vậy, này các Tỳ kheo, những chúng sanh hiếu kính cha mẹ thì quá ít,như đất đầu ngón tay của ta,còn những chúng sanh bất hiếu với cha mẹ lại qúa nhiều như đất trên quả địa cầu.”
Sở dĩ, con người sống bất hiếu là do vô minh, để cho tham, sân, si ngự trị, không màng đến tội lỗi, không sợ nhân quả nghiệp báo, nên gây ra ác nghiệp làm khổ đau cho mình và cho cha mẹ. Vì thế, Đức Phật hết lòng thương xót chỉ rõ cho chúng ta thấy, thế nào là nguy hại của sự bất hiếu và lợi ích của lòng hiếu kính, để chúng ta ý thức và chọn lựa cho mình một nếp sống tốt đẹp, đưa đến an vui hạnh phúc cho mình và cho tất cả.
- Lợi ích của việc báo hiếu:
Trong Kinh Hạnh Phúc có đoạn như sau: “Người con chí hiếu dù có gặp đại nạn như: tai trời, ách nước, địa chấn…sẽ thoát hiểm một cách an toàn. Nếu giàu thì được hưởng trọn gia tài, không bị nghịch cảnhchướng duyên, nội nghịch ngoại thù, luật vua phép nước, trộm cướp mất mùa…Nếu nghèo thì đời sống trong sạch thanh nhàn, trời người yêu thương, danh thơm xông khắp, không bị cảnh nợ nần khổ sở, ít bịnh tật, được tăng tuổi thọ… Sau khi chết được sanh thiên”.
Một điều thực tế trong cuộc sống chúng ta thường thấy, người nào mà ăn ở có hiếu với cha mẹ, thì luôn được mọi người thương yêu, quí mến và cuộc sống của họ lúc nào cũng cảm thấy an vui, hạnh phúc. Con cháu của họ cũng sẽ hiếu thảo lại với họ.
Cổ đức dạy: “Những người con nào tuyệt đối hiếu kính với cha mẹ sẽ chiêu cảm đến trời đất. Khi gặp các nạn dữ được long thần hộ pháp gia hộ thoát khỏi các nạn khổ.”
Nên nói:
“Hiếu hạnh đứng đầu trăm hạnh,
Hiếu cảm đến trời mưa hòa gió thuận,
Hiếu cảm đến đất muôn vật hóa sanh,
Hiếu cảm đến người mọi phúc tăng trưởng”.
Như chuyện Ngài Mạnh Tông mồ côi cha từ thuở nhỏ, một mình phụng dưỡng mẹ rất chu đáo. Một hôm, mẹ ông bịnh nặng, thèm ăn canh măng. Mạnh Tông đi vào rừng tre kiếm măng không thấy, ngồi ôm gốc tre mà khóc, lòng hiếu thảo của ông động đến trời đất, mấy mụt măng từ dưới đất nhô lên. Mạnh Tông mừng rỡ lấy măng đem về nấu canh dâng mẹ, ăn canh măng xong, mẹ ông thấy bịnh tình bớt dần rồi khỏe hẳn.
Quả thật, lòng hiếu thảo của ngài Mạnh Tông đã làm cảm động đến trời đất.
Kinh dạy: “Cha mẹ tại tiền như Phật tại thế, gặp thời không có Phật, khéo thờ cha mẹ tức là thờ Phật vậy”.
Thờ cha kính mẹ, hiếu thảo với cha mẹ đó là việc làm mà tất cả chư Phật, chư Bồ tát, chư Hiền Thánh Tăng đã thực hành và đưa đến lợi ích. Không có một vị Phật nào thành Phật mà không hiếu kính với cha mẹ. Phật dạy: “Ta từ vô lượng kiếp đến nay, nhờ hiếu dưỡng cha mẹ nên chứng thành đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.(Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân)
Một người sống biết hiếu đạo thì đi đến đâu cũng được mọi người thương yêu, kính trọng và tin cậy, làm việc gì cũng được mọi người giúp đỡ và dễ dàng được thành tựu, đời sau sẽ hưởng được vô lượng phước báo.
Hiếu có lợi ích lớn lao vô cùng, không những cho bản thân mình mà còn cứu độ cha mẹ hiện tại cũng như vô lượng kiếp. Ngược lại, người nào bất hiếu với cha mẹ thì tai hại và tội lỗi cũng không thể lường được.
- Tai hại của sự bất hiếu:
Khi Đức Phật còn tại thế, xứ Ấn Độ đã rúng động trước hành động vô cùng bất hiếu của một vị vua,đó là vua A Xà Thế. Vì nghe lời xúi dục của Đề Bà Đạt Đa, A Xà Thế âm mưu hành thích vua cha là Bình Sa Vương để đoạt ngôi, nhưng rồi bị bại lộ. Thế nhưng, Bình Sa Vương với tình phụ tử thiêng liêng, người đã không trị tội mà còn nhường ngôi cho con, thật là một người cha vĩ đại.
Khi lên ngôi, để trả ơn cho cha, Tân vương tính toan do dự, cuối cùng ông quyết định hạ ngục cha mình và ra lệnh bỏ đói cho đến chết. Mẫu hậu Vi Đề Hy vì quá thương chồng nên lén lút giấu thức ăn trong búi tóc để mang cho chồng dùng đỡ dạ, nhưng rồi A Xà Thế biết liền quở trách mẹ và cấm tuyệt đối không được vào thăm. Mặc dù bị giam đói, nhưng Đức vua vẫn tươi nhuận hồng hào, thản nhiên như thường, bởi vua Bình Sa đã bước vào Sơ quả Tu Đà Hoàn. Thấy cha ngày càng tịnh lạc, A Xà Thế nhất định giết đi cho khuất mắt.
Một hôm, ông cho gọi người thợ cạo vào, Đức vua thấy mừng thầm, nghỉ rằng con mình đã ăn năn hối lỗi, nên cho người đến cạo râu tóc để rước ra. Ngờ đâu trái với lời Đức vua nghĩ, người thợ cạo lạy vua trong nước mắt rồi y lệnh của A Xà Thế, dùng dao cạo gót chân vua, xát dầu và muối vào hơ trên lửa nóng cho chết dần. Trước thảm cảnh đó, Bình Sa Vương chánh niệm an trú trong từ bi quán, nguyện cho con mình thoát khỏi cảnh địa ngục.
Cùng lúc ấy, vợ vua A Xà Thế hạ sanh được một Hoàng nam, ông vui mừng khôn xiết và rất thương con, liền chạy vào hỏi mẹ rằng: “Thưa Mẫu hậu, không biết lúc còn nhỏ, phụ vương con có thương con như con thương con của con không?”
Mẫu hậu nói: “Sao con hỏi lạ vậy! Mẹ nghĩ trên thế gian này không tìm đâu ra được người cha lành như cha của con, mẹ còn nhớ có một lần con bị mụt nhọt, đau nhức cứ la khóc suốt ngày đêm, lúc đó cha con cùng bá quan đang nghị triều, nghe con khóc cầm lòng không đậu, liền bế con vào lòng, và ngậm ngón tay của con vào miệng nút nhè nhẹ kẻo sợ con đau, lúc đó cái mụt vỡ ra, máu mủ tuôn ra trong miệng, nhưng cha con không nỡ lấy tay con ra sợ con đau khóc, liền nuốt cả máu lẫn mủ vào bụng, nhờ vậy mà con hết đau nhức đó con ơi.”
Nghe đến đây, A Xà thế vội đứng phắt dậy, hoảng hốt vừa chạy vừa hét như điên.“Thả ra mau! Hãy thả lập tức người cha yêu quí của Trẫm ra mau. Nhưng than ôi! Khi ông vừa đến cửa ngục, ông kinh hoàng thấy đôi chân của cha còn rướm máu, nhưng thân thể đã bất động. Ông gào thét! “Cha…cha ơi…”từng giọt nước mắt lan tỏa, hòa trong nỗi đớn đau và ân hận vô cùng. Chính hành động ác tâm của A Xà Thế đã làm cho ông vô cùng khổ sở…” Mặc dù ông đã ăn năn hối lỗi, nhưng việc làm bất hiếu của ông sẽ phải trả quả báo trong một kiếp nào đó.
Hỡi những ai còn cha còn mẹ ở trên đời phải hết lòng hiếu thảo, đừng để hành động nông nổi, bất hiếu như Vua A Xà Thế rồi ăn năn không kịp.
Người sống có hiếu với cha mẹ là người biết tạo lập cho mình một đời sống hạnh phúc, và là tấm gương cho những đứa con của mình noi theo. Cũng chính là noi theo gương hiếu của chư Phật và Bồ tát.
Đức Phật dạy rằng:
“Hiếu tâm tức thị Phật tâm,
Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh.
Dục đắc đạo đồng chư Phật,
Tiên tu hiếu dưỡng nhị thân”.
Nghĩa: Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu không khác gì hạnh Phật. Muốn chứng quả đồng với chư Phật, việc làm đầu tiên là phải lo hiếu dưỡng song thân.
Nhà Nho cũng có câu: “Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”(Trong muôn hạnh, hạnh hiếu đứng đầu). Thế nên, việc đầu tiên học làm người là phải hiếu hạnh. Chúng ta hằng ngày đến chùa làm công quả, tụng Kinh niệm Phật… nhưng đối với cha mẹ lại bất kính thờ ơ thì việc làm của chúng ta có ý nghĩa gì.
Thử hỏi, đối với cha mẹ mình mà thờ ơ lạnh nhạt, xao lãng, tệ hơn nữa là bất hiếu, thì làm sao sống tốt với ai. Có chăng! chỉ là vì danh vì lợi mà thôi. Bởi thế, bao nhà thơ đã xót xa qua những áng văn chương thật tuyệt tác, rung động, thay tiếng nói từ trái tim của người cha, người mẹ.
“Cha mẹ thâm ân tợ biển trời
Bao giờ đền đáp được người ơi!
Nếu không có hiếu đừng bất hiếu
Bất hiếu làm ta khổ suốt đời”.
Trong kinh điển Đức Phật đã chỉ rõ những quả báo đọa địa ngục do tội bất hiếu cho chúng ta thấy, để lo báo hiếu cha mẹ và tránh cảnh địa ngục. Vậy mà có người do mê muội nên tạo tội lỗi bất hiếu với cha mẹ, để rồi phải chịu sự hành hạ, đọa đày trong ba ác đạo.
Như câu chuyện chàng Mét Tra. Một hôm xin mẹ vượt biển đi buôn, bà mẹ sợ con gặp nguy hiểm, nên hết lời năn nỉ chàng ở nhà. Nhưng chàng chẳng nghĩ đến tình mẫu tử, không nghe lời mẹ chỉ dạy, bỏ mẹ ra đi một cách bạc bẽo, vô tình.
Vì quá thương con, bà mẹ chạy theo dang rộng đôi tay nửa như khẫn thiết, nửa như van nài, muốn giữ con lại. Trước cử chỉ vô cùng thiêng liêng ấy, chàng chẳng những không một chút xúc động, mà còn nhẫn tâm xô mẹ ngã xuống, rồi thản nhiên ra đi không hề ngoảnh mặt nhìn lại.
Người mẹ ngẹn ngào, nức nở, đưa mắt trông về phía con, cất tiếng nói yếu ớt: “Con sớm trở về với mẹ nghe con. Mẹ mong sao con của mẹ không phải chịu trả quả báo đã làm mẹ đau khổ như thế này.”
Tuy nhiên, gieo gió thì phải gặt bão mà thôi. Trong sử ghi rõ chuyện chàng Mét Tra bất hiếu với mẹ, sau khi chết đọa địa ngục chịu cực hình, trên đầu đội vòng sắt cháy đỏ, đau đớn vô cùng, một cái giá mà chàng phải trả rất đắt cho tội bất hiếu do mình gây ra.
Kinh Báo Hiếu Phật dạy: “Những đứa con bất hiếu, sau khi chết đọa vào ngục A Tỳ, lửa dữ thiêu đốt, ăn toàn sắt nóng, uống nước đồng sôi, gươm đao đâm chém…ngày đêm sống chết muôn lần…”
Bồ Đề Lão Tử cũng cảnh tỉnh rằng:
“Bội nghịch cha mẹ, trời đất tru lục.
Bất kính cha mẹ, hậu kiếp mồ côi”.
Trong Kinh Nhẫn Nhục cũng dạy:
“Cùng tột điều thiện không gì hơn hiếu
Cùng tột điều ác không gì bằng bất hiếu”.
Một người con bất hiếu đối với cha mẹ, có tâm ác với cha mẹ thì trời đất không thể dung tha. Khi sống thì bị mọi người khinh ghét, ruồng bỏ, nguyền rủa, lương tâm luôn cắn rứt và bất an; khi chết phải chịu cảnh hành hạ ở địa ngục rất khổ sở. Một người sống trong xã hội mà không biết ân nghĩa thì không đủ nhân cách làm người. Một người Phật tử không biết tri ân và báo ân cha mẹ thì không xứng đáng là người Phật tử.Thế nên, chúng ta phải ý thức được điều này, để sống hiếu thảo với hai đấng sanh thành, lúc cha mẹ còn trẻ cũng như lúc già yếu bịnh tật phải hết lòng lo báo hiếu.
- KẾT LUẬN
Lễ hội Vu Lan khởi đi một lần là lưu lại dấu ấn mãi trong tâm thức nhân loại đã mấy ngàn năm và hiếu đạo tình người muôn đời cũng nở hoa bất diệt.
“Nguồn hiếu đạo vẫn luôn bất tận
Như trăng sao trên bầu trời muôn thuở
Như suối nguồn tắm mát tận tâm can
Lưu chảy mãi trên tiến trình lịch sử”.
Mùa Vu lan còn gọi là mùa báo hiếu, là lễ hội thiêng liêng, nhắc nhở những người con phải ăn ở hiền lương với mọi người, hiếu thảo với cha mẹ, đừng để ân hận một khi quá muộn màng. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên đóng khung việc báo hiếu vào mùa Vu Lan, đã là hiếu thì mùa nào cũng là mùa hiếu, trong mỗi phút mỗi giây, chúng ta đều thực thi hạnh hiếu.
Vì thế, đối với người học Phật, dù tại gia hay xuất gia chúng ta phải luôn nhớ nghĩ đến công ơn cha mẹ để lo báo đáp. Siêng năng, nỗ lực tu tập, làm những việc phước thiện, lập công bồi đức để hồi hướng cho cha mẹ quá vãng được siêu thoát, cha mẹ hiện tiền được tăng phước, sống an vui.
Chúng ta nên biết, hiếu đạo là một trong những chuẩn mực đạo đức căn bản của loài người. Dù con người có văn minh tuyệt đỉnh đến đâu, hiếu đạo vẫn không bị xem là “lỗi thời” mà luôn được tôn vinh ca ngợi qua các thời đại, trong mọi xã hội.
Hiện nay, đạo đức con người ngày càng xuống dốc trầm trọng, hàng ngày báo chí thường đưa tin những người con bất hiếu đánh đập, chém giết cha mẹ, anh em kiện cáo tranh giành nhau tài sản cha mẹ để lại, để rồi chia rẽ nhau, thù hận lẫn nhau. Đứng trước cảnh trạng đau lòng đó, người con Phật phải định hướng cho mình một nếp sống hiếu đạo.
Hiếu đạo là yếu tố định hình cho đời sống luân lý đạo đức, hoàn thiện nhân cách, mang lại bình an, hạnh phúc cho con người, góp phần ổn định trật tự, an ninh xã hội. Vì thế, mỗi người chúng ta phải thực thi hạnh hiếu, để đền đáp “Tứ trọng ân”, thể hiện nếp sống tốt đời đẹp đạo
BÀI 2
- DẪN NHẬP
Cứ mỗi độ thu về, mây trời trôi miên man, gió thu nhè nhẹ lay cành lá hòa với tiếng chuông chùa ngân nga đã gợi nhớ trong lòng người con Phật rằng mùa Vu Lan sắp về. Vu Lan là mùa báo hiếu của Phật giáo có từ ngàn xưa, một truyền thống độc đáo nhất của Phật giáo, nó nói lên tinh thần tri ân và báo ân, mà đặc biệt nhất là ân đức của hai đấng sinh thành đó là cha và mẹ của mỗi người chúng ta.
Với nếp sống tri ân và báo ân của những người con Phật. Mùa Vu Lan, đã trở thành nét đẹp truyền thống hiếu đạo của người Phật tử Việt Nam. Không những là mùa cứu độ cửu huyền thất tổ mà còn là mùa mà chúng ta dành trọn niềm yêu thương hướng về hai đấng sanh thành. Thật vậy, ân đức của hai đấng sinh thành quả thật là bao la như trời biển, không thể nào mà báo đáp cho vừa sức nên Việt Nam ta có những câu ca dao, câu hát nói về ơn nghĩa này như là:
“Ân cha lành cao như núi thái
Đức mẹ hiền sâu tận biển khơi
Dù cho dâng cả cuộc đời
Cũng không trả được ân người sanh ta.”
Nên bổn phận làm con, chúng ta không thể nào quên được ơn ấy, nhất là khi thấy cha mẹ mình sống trong cảnh đâu khổ thì người con nào mà chẳng thấy lương tâm mình xót xa. Chính vì vậy mà thuở xưa, tôn giả Mục Kiên Liên đã khóc thảm thiết khi thấy mẹ mình bị đọa nơi chốn ngạ quỷ đói khát mà Ngài không sao cứu được. Và cũng chính Ngài là người đầu tiên tha thiết xin Phật chỉ phương pháp cứu thoát mẹ mình. Thế là pháp Vu Lan Bồn có từ đấy.
Vậy phương pháp đó được Đức Phật dạy như thế nào và ngày nay chúng ta có còn thực hiện được nữa không? Vì vậy, chúng ta cùng nhau đi tìm hiểu qua nội dung đề tài sau đây.
- NỘI DUNG
- NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH VÀ Ý NGHĨA CỦA PHÁP VU LAN
- Định nghĩa:
Vu Lan: nói đầy đủ là Vu Lan bồn, một thuật ngữ có nguồn gốc từ bài Phật thuyết Vu Lan Bồn Kinh.
“Vu lan bồn” phiên âm từ chữ urabone, tiếng Phạn là ullambana, có nghĩa là treo ngược. Tiếng Trung Hoa dịch nghĩa là “đảo huyền”hay“giải đảo huyền”. Nghĩa là cởi trói cho người bị treo ngược, gỡ cho họ khỏi gông cùm xiềng xích, khỏi khổ đau ách nạn. Giải đảo huyền còn có nghĩa là giải thoát khỏi tất cả những mối phiền não, những dây luyến ái đã từng trói buộc cái tâm đi luân hồi, giải thoát khỏi sự trói buộc của tâm tham, sân, si.
- Nguồn gốc hình thành pháp Vu Lan Bồn
Thuở Phật còn tại thế, có một vị đệ tử là tôn giả Mục Kiền Liên, sau khi chứng thần thông đệ nhất, với lòng hiếu thảo nhớ nghĩ đến mẹ mình khi còn sanh tiền đã tạo bao ác nghiệp. Do đó, Ngài dùng đạo nhãn xem xét trong thế gian, nhận thấy mẹ mình sanh làm ngạ quỷ, thân hình tiều tuỵ, dâng cơm không ăn được mà hoá thành than lửa. Nỗi đau khi thấy mẹ mình sống trong cảnh khổ, ngài Mục Liên bèn trở về Tinh Xá bạch Phật, cầu Phật chỉ dạy cho phương pháp cứu độ thân mẫu.
Phật bảo:
“Mẹ ông gốc tội rất sâu
Dầu ông thần lực nhiệm mầu,
Một mình không thể ai cầu đặng đâu.
Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn,
Tiếng vang đồn thấu đến cửu thiên
Cùng là các bậc thần kỳ,
Tà ma ngoại đạo, bốn vì thiên vương.
Cộng ba cõi sáu phương tụ tập,
Cũng không phương cứu tế mẹ ngươi.”
Nhưng trước sự hiếu thảo tột cùng và lòng mong cầu tha thiết của Mục Kiền Liên, nên Phật đã từ bi chỉ dạy phương pháp cứu mẹ của Ngài như sau:
“Muốn cho cứu đặng mạng người
Phải nhờ thần lục của mười phương Tăng.”
Nhưng phải đúng vào ngày rằm tháng bảy, vì ngày ấy là ngày mà chư Tăng Tự tứ, tức là sau ba tháng tu tập có đầy đủ phước đức, nên ngày ấy Ông phải:
“Phải toan sắm sửa chớ chầy,
Thức ăn trăm món, trái cây năm màu.
Lại phải sắm giường nằm nệm lót,
Cùng thau, bồn, đèn, đuốc, nhang, dầu,
Món ăn tinh sạch báo mầu,
Đựng trong bình bát vọng cầu kính dâng.”
Làm được như vậy thì không những cứu được cha mẹ trong một đời mà còn cứu được cả trong bảy đời đều siêu thăng, và cha mẹ hiện tiền cũng nhờ đó mà tăng phước tăng thọ, tiêu khiên ách nàn. Ngài Mục Kiền Liên theo lời Phật dạy, cử hành đại lễ Vu lan để cứu độ thân mẫu, và cũng nhờ hưởng phước lành đó, những tội nhơn trong địa ngục cũng được siêu thoát.
Nhờ ơn Phật dạy bảo, tôn giả Mục Kiền Liên đã làm bổn phận của người con chí hiếu. Noi theo tấm gương hiếu hạnh của tôn giả, cứ đến ngày rằm tháng bảy mỗi năm, các hàng Phật tử dùng pháp Vu -lan- bồn để đền đáp thâm ân dưỡng dục sanh thành của cha mẹ và tế độ chư vong linh đoạ lạc.
Vậy là pháp Vu Lan Bồn có từ thuở ấy và lưu truyền mãi cho đến hôm nay. Khi pháp Vu Lan Bồn truyền vào Việt Nam thì đã nhanh chóng trở thành một lễ hội của dân tộc chứ không còn dành riêng cho Phật giáo nữa, và nó cũng đã mang một tên rất dễ thương đó là “Vu lan thắng hội”. Có nghĩa nôm na là Vu Lan là một lễ hội thù thắng vì nó cứu vớt rất nhiều vong linh thoát khổ vậy.
Sau khi lễ này du nhập vào Trung Hoa, Lương Vũ Đế là vị vua đầu tiên xuấtgia và cũng là người đầu tiên cúng Vu Lan Bồn vào năm 538. Lễ cúng diễn ra tại chùa Đồng Thái tỉnh Giang Tô, sau đó lễ này được truyền khắp Trung Hoa.
Theo Phật giáo Trung Hoa, Tam Tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ là người dịch Vu Lan Bồn Kinh đầu tiên vào đời Tây Tấn (265-316). Đến đời Đông Tấn (317-420), một bản dịch khác xuất hiện với tựa đề là Phật Thuyết Báo Ân Phùng Bồn Kinh.
Theo Đại Việt sử Ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, lễ Vu Lan Bồn du nhập vào nước ta rất sớm. Từ năm 1072, vua Lý Nhân Tông đã từng thiết trai đàn cầu siêu cho cha mẹ. Thế rồi, qua thời gian, Vu Lan Bồn dần dần trở thành đại lễ cho đến ngày nay.
Để có niềm tinh vững chắc, thực hiện hạnh hiếu, mỗi chúng ta phải hiểu ý nghĩa thâm diệu của lễ Vu Lan.
- Ý nghĩa pháp Vu Lan
Lễ Vu Lan được thể hiện qua những ý nghĩa sau đây.
- Tinh thần giác ngộ: Bà Thanh Đề thoát khổ là nhờ vào tâm lực và oai đức của chư Tăng nhất tâm hướng về bà, mong cho bà chuyển đổi tâm niệm xấu ác thành thiện, mà điểm chính ở đây là nơi tâm niệm bà Thanh Đề đã hoan hỷ rộng mở khi biết Mục Liên cúng dường trai Tăng hồi hướng cho bà, và bà biết ăn năn Sám hối, nhờ tâm niệm đó mà trí giác khai sáng, liền thác sanh về cõi lành.
- Tinh thần từ bi cứu khổ: lễ Vu Lan với nghĩa: “giải đảo huyền” là cứu giúp sự khổ đau nặng nề của chúng sanh bị đoạ lạc. Qua đó, cho ta thấy tính nhân bản sâu sắc của Đạo Phật, đồng thời, thấy được vai trò trọng trách của người con Phật. Với tinh thần từ bi cứu khổ của Đức Thế Tôn, Ngài đã thuyết “Vu Lan Bồn”, chính lòng từ bi và trọng trách đó, cho chư Tăng sách tánh nỗ lực tiến tu, trau dồi giới đức, ngỏ hầu trên cầu Phật đạo, dưới hoá độ chúng sanh.
- Tinh thần báo hiếu: Tất nhiên, sự báo hiếu không phải nhắm vào mùa Vu Lan, bởi vì công ơn cha mẹ rộng như trời bể, phận làm con suốt đời báo ơn vẫn chưa vừa. Nhưng mỗi người con nói chung và người Phật tử nói riêng, khi nhắc đến Vu Lan không ai không nhớ đến mùa báo hiếu cho cha mẹ, bởi rằng:
“Cây có cội mới trổ cành sanh lá
Nước có nguồn mới bủa khắp rạch sông
Phàm làm người ai cũng có tổ tông
Ơn cha mẹ như trời cao biển rộng”
Thực vậy, công ơn cha mẹ như trời cao biển rộng. Cho nên, tinh thần thiêng liêng đó được thể hiện qua những câu ca dao, tục ngữ nhân gian:
“Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín legal fluoxymesterone half life crunchy and protein chữ ghi lòng con ơi”
Từ thân xác lẫn tâm hồn cho đến sự nghiệp của chúng ta hôm nay chính là một phần do cha mẹ tạo dựng cho. Thế nên, xin mỗi người con trên thế gian này khi còn cha mẹ thì hãy tôn trọng, quý kính, hãy cẩn thận đừng làm cho cha mẹ buồn, hãy luôn luôn là người con hiếu thảo đối với hai đấng sanh thành.
Kinh thi có câu:“Tri ân, báo ân phong quang hoà nhã. Tri ân bất báo phi tri nhân giả”. Nghĩa là: người ở đời thọ ân mà biết đền trả thì người ấy phong quang tốt đẹp, còn người thọ ân mà không lo đền trả thì không phải là người vậy. Nhưng ta đền trả như thế nào để có kết quả tốt đẹp và trọn vẹn nhất?
– Về tinh thần: Điều quan trọng là hết lòng thương yêu tôn kính, lễ phép với cha mẹ, hướng dẫn cha mẹ nương về Tam Bảo, tu các thiện pháp như ăn chay, niệm Phật, phóng sanh, tụng kinh, bái sám cho tiêu tội… để được thoát ly sanh tử, an lạc giải thoát ngay trong đời sống hiện tại và được vãng sanh Cực Lạc sau khi lâm chung. Được như vậy mới gọi là đạo hiếu.
Từ xưa đến nay người ta thường ca ngợi đại hiếu Mục Kiền Liên, nhưng người báo hiếu đạt mức cao tột nhất đó là “Đại hiếu Thích Ca Mâu Ni Phật”, sau khi thành đạo, Thế Tôn trở về thành Ca Tỳ La Vệ, Ngài đã hướng dẫn vua cha Tịnh Phạn nên sống một cuộc đời đạo hạnh, tránh lối sống xa hoa và đến giờ phút vua cha hấp hối, ngài giảng Pháp cho cha nghe, vua cha chứng quả A La Hán và băng hà trong niềm an lạc của chánh pháp. Đó là Phật thể hiện lý cùng tột của người con đại hiếu.
– Về vật chất: Đức Phật đã tự tay tắm rửa phụ vương khi tẩm liệm và đến lúc cử hành lễ trà tỳ, Phật cũng ghé vai khiêng kim quang. Ngài A Nan thấy vậy rất ái ngại, bèn bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tốn! Xin Thế Tôn để con làm cho Ngài”. Phật bảo: “Đừng A- nan, đừng cản trở việc làm của Như Lai”. Như vậy, ta thấy đức Phật là tấm gương hiếu hạnh trọn vẹn.
- Ý nghĩa bát cơm hoá lửa:
Mẹ Ngài Mục Liên đang sống trong cảnh giới đói khát của ngạ quỷ do nghiệp nhân tham lam bỏn xẻn, thì quả tương ứng với nhân tham là cảnh thiếu thốn. Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt nói :”Nếu người tham lam bỏn xẻn, không bao giờ biết bố thí do tánh keo kiệt bám víu vào tài sản của mình, nếu tái sanh làm người sẽ bị nghèo nàn thiếu thốn” …
Trong Phật giáo, hình ảnh ngọn lửa thường được dùng để ám chỉ sức mạnh của sự tối tăm như lòng tham, sân, si … thường gọi là lửa tham, lửa sân, lửa si… Do nghiệp nhân tham lam bỏn xẻn, nên mẹ Ngài Mục Liên phải sống trong cảnh khốn khổ ngạ quỷ. Do lòng tham lam vẫn còn chi phối mạnh mẽ tâm thức của bà, nên khi nhận bát cơm, bà đã vội vàng tay trái che bát, tay phải bốc ăn vì sợ kẻ khác cướp mất bát cơm của mình. Sự tham lam ích kỷ đó bùng lên quá mạnh, như một ngọn lửa bùng lên bao phủ tâm thức của bà, làm cho bà thấy lửa ở trong bát cơm của mình, lửa ở đây là lửa của tâm thức chứ không phải lửa ở bên ngoài. Cho dù bát cơm không hóa lửa đi nữa bà cũng khó mà hưởng thụ được bát cơm một cách ngon lành, bởi lẻ với tâm lý tham lam bỏn xẻn, bà ăn trong vội vàng, lo lắng khiếp sợ, thì nuốt cơm cũng như nuốt đất mà thôi.
Mặt khác, như đã nói theo định luật chiêu cảm của nghiệp báo, khi đã tạo nghiệp đói, thì dù có cơm canh ngon lành vẫn thấy lửa như thường, cũng giống như một người đã tạo nghiệp ngu si, thì dù có gặp sách vở hay, họ cũng coi như giấy lộn mà thôi, bởi lẻ nghiệp nhân và nghiệp quả phải tương đồng .
Ngài Mục Liên không cứu mẹ được, vì sức của một mình Ngài không đủ chế ngự và chuyển hoá được ngọn lửa tham của mẹ Ngài, hay nói cách khác, thần thông không thể xoá được luật nhân quả. Ngọn lửa xuất hiện ở đâu thì phải diệt ở đó, mẹ Ngài đã tạo ra ngọn lửa thì chính bà mới dập tắt được ngọn lửa đó.
- Ý nghĩa Chư Tăng chú nguyện:
Đức Phật dạy phương pháp cứu mẹ cho Ngài Mục Kiền Liên là phải nhờ vào sức mạnh tâm linh của Chư Tăng trong ngày Tự Tứ. Điều đó đã nói lên sức mạnh của tập thể bao giờ cũng thù thắng hơn sức mạnh của cá nhân, dù cá nhân đó vĩ đại như Đức Phật.
Sau ba tháng an cư kiết hạ, đến ngày rằm tháng bảy thì giải chế phải làm lễ Tự Tứ. Chữ “Tự Tứ” tức là xin Chư Tăng tuỳ ý chỉ trích những lỗi lầm của mình do Chư Tăng thấy, nghe hay nghi để mình biết mà sám hối, nhờ sám hối nên thân khẩu ý được thanh tịnh thì công đức rất lớn. Đây là cách thức hạ mình cầu xin chỉ lỗi, có lẽ vì vậy mà phải nương nhờ ý lực chú nguyện của Chư Tăng trong ngày Tự Tứ chứ không phải những ngày khác .
Với tâm lực thanh tịnh, đầy đủ các đức tính từ bi an lạc, Chư Tăng hướng tâm mình vào cảnh giới khổ đau của ngạ quỷ, luồng tâm từ của Chư Tăng hợp nhất tạo thành một nguồn năng lượng lớn có tác dụng làm dịu mát môi trường nóng bức của cảnh giới ngạ quỷ, như một luồng gió mát thổi qua buổi trưa hè oi ả, làm cho thâm tâm của mẹ Ngài Mục Kiền Liên được nhẹ nhàng thanh thoát và bình tĩnh hơn. Do đó, đã tạo điều kiện cho thiện tâm của bà phát khởi, chuyển hoá được nghiệp lực của chính bà, từ đó thay đổi được môi trường sống của bà. Không những mẹ Ngài Mục Kiền Liên được giải thoát, mà tất cả những người sống trong cảnh khổ đó cũng được thừa hưởng luồng gió mát từ tâm ấy, và nếu họ phát khởi thiện tâm thì có thể giải thoát như nhau.
Thông thường, sự tác động của ngoại cảnh có thể làm thay đổi tâm thức của con người, nhất là đối với những người chưa làm chủ được tâm thức của mình. Khi bị sống trong hoàn cảnh bức xúc áp chế, lòng người trở nên cọc cằn thô lỗ, độc ác.v.v… Khi hoàn cảnh thay đổi thuận lợi dễ chịu, mát mẻ.v.v… tâm tư của con người được thoải mái, tỉnh táo hơn, và do đó dễ nhận chân ra điều hay lẽ phải. Cũng trên quy luật đó, khi nguồn năng lượng tâm từ chiếu toả vào cảnh giới nóng bức của ngạ quỷ, tạm thời làm dịu mát và đình chỉ các nổi đau đớn, đói khát của mẹ Ngài và những ngạ quỷ khác, giây phút đó đã tạo ra cơ hội cho trí tuệ phát sinh và cứu được bản thân của bà.
Tóm lại, sự chú nguyện của Chư Tăng trong ngày Tự Tứ không phải xóa được luật nhân quả, không phải trực tiếp cứu rỗi tội lỗi của chúng sinh, mà điều đó chỉ có tác dụng trợ duyên, tạo những điều kiện thuận lợi cho chúng sinh phát khởi thiện tâm của chính mình. Thiện tâm của mỗi người mới có thể cứu được chính họ mà thôi.
- Những điều kiện cần thiết để pháp Vu Lan thành tựu
- Phải là một người con hiếu thảo
Đây là điều kiện đầu tiên để pháp Vu Lan Bồn thành tựu. Nếu như người con không có lòng hiếu thảo thì không bao giờ nghĩ về cha mẹ nữa thì có đâu mà tìm phương báo đáp. Hơn nữa, chỉ có người con hiếu thảo thật sự thì mới lo nổi trai đàn mà thôi. Vì sao? Vì thức ăn phải làm đủ trăm món, trái cây năm màu, và còn nhiều thứ vật dụng khác nữa. Ở đây, chúng ta thấy Đức Thế Tôn đưa ra con số ấy là không phải làm khó khăn cho Phật tử mà là để tìm thấy những người con hiếu thảo thật sự. Vì có những người con khi nghe cúng dường Tam Bảo để cứu được cha mẹ nhưng khi hỏi đến kinh phí thì chê mắc chê rẻ, còn so đo tính toán, nhiều ít, như vậy thì làm sao gọi là con hiếu thảo được. Nói như vậy để chúng ta thấy được rằng một người con hiếu thảo thì không có sự tính toán như vậy. Vì nghĩ đến công ơn cha mẹ nuôi ta suốt đời thì hôm nay chúng ta bỏ chút ít tiền vật ra để cúng dường cho cha mẹ mà còn tiếc thì không thể nào cứu giúp cho vong linh hết tội. Nếu một người con hiếu thảo thật sự thì sau khi cha mẹ qua đời có thể bán hết nhà cửa để cúng dường Tam Bảo, cộng với lòng chí thành chí thiết, có như vậy mà còn sợ chưa cứu nổi cha mẹ, huống gì là những hạng người bỏ chút ít tiền bạc ra mà còn chê mắc chê rẻ thì thử hỏi họ có thể cứu giúp được cha mẹ hay không?
Như trong Kinh Địa Tạng có kể về tiền thân của Ngài Địa Tạng Bồ Tát từng làm người con hiếu thảo như vầy:
Chuyện thứ nhất: Bà La Môn Nữ Cứu Mẹ
Lại thuở bất khả tư nghị vô số kiếp về trước, lúc đó có Đức Phật hiệu là: Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai, Ðức Phật ấy thọ đến bốn trăm nghìn muôn ức vô số kiếp. Trong thời tượng pháp, có một người con gái dòng Bà La Môn, người này nhiều đời chứa phước sâu dày, mọi người đều kính nể, khi đi đứng, lúc nằm ngồi, chư Thiên thường theo hộ vệ. Bà mẹ của người mê tín tà đạo, thường khinh khi ngôi Tam Bảo. Thuở ấy, mặc dầu Thánh Nữ đem nhiều lời phương tiện khuyên nhủ bà mẹ người, hầu làm cho bà mẹ người sanh chánh kiến, nhưng mà bà mẹ người chưa tin hẳn. Chẳng bao lâu bà ấy chết thần hồn sa đọa vào Vô Gián địa ngục.
Lúc đó, Thánh Nữ biết rằng người mẹ khi còn sống không tin nhơn quả, liệu chắc phải theo nghiệp quấy mà sanh vào đường ác. Thánh Nữ bèn bán nhà, đất, sắm nhiều hương hoa cùng những đồ lễ cúng, rồi đem cúng dường tại các chùa tháp thờ Đức Phật Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương. Trong một ngôi chùa kia, thấy hình tượng của Đức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương đắp vẽ oai dung đủ cách tôn nghiêm. Thánh Nữ Bà La Môn chiêm lễ tôn dung, lòng càng bội phần kính ngưỡng, thầm nghĩ rằng: “Ðức Phật là đấng Ðại Giác đầy đủ mọi trí huệ. Nếu Ðức Phật còn tại thế, thì sau khi mẹ tôi mất, thảng như tôi đến bạch hỏi Phật, tất biết được nơi mẹ tôi thác sanh!”
Lúc ấy, Thánh Nữ Bà La Môn cúi đầu khóc rất lâu, rồi lại quyến luyến tôn tượng của Như Lai, bỗng nghe trên không trung có tiếng bảo rằng: “Này Thánh Nữ đương khóc kia, thôi đừng có bi ai quá lắm! Nay Ta sẽ bảo cho ngươi biết chỗ thác sanh của mẹ ngươi.”
Bấy giờ, trên hư không lại có tiếng bảo Thánh Nữ rằng: “Ta là Ðức Phật quá khứ Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai mà ngươi đương chiêm lễ đó. Thấy ngươi thương nhớ mẹ trội hơn thường tình của chúng sanh, nên Ta đến chỉ bảo.”
Lúc ấy, Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai bảo Thánh Nữ rằng: “Cúng dường xong, ngươi hãy mau trở về nhà, rồi ngồi ngay thẳng nghĩ tưởng danh hiệu của Ta, thời sẽ biết được chỗ thác sanh của mẹ ngươi.”
Khi ấy, Thánh Nữ Bà La Môn nhờ nương sức niệm Phật nên tự nhiên không kinh sợ. Có một Quỷ Vương tên là Vô Ðộc, đến cúi đầu nghênh tiếp, hỏi Thánh Nữ rằng: “Lành thay, Bồ Tát! Do duyên sự gì mà Ngài đến chốn này?”……
Vô Ðộc chắp tay thưa Thánh Nữ rằng: “Xin Thánh Nữ hãy về, chớ đem lòng thương nhớ buồn rầu quá lắm nữa. Tội nữ Duyệt Ðế Lợi được sanh lên cõi trời đến nay đã ba ngày rồi.
Nghe nói nhờ con gái của người có lòng hiếu thuận, vì mẹ mà sắm sửa lễ vật, tu tạo phước lành, cúng dường chùa tháp, thờ đức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai. Chẳng phải chỉ riêng thân mẫu của Bồ Tát đặng thoát khỏi địa ngục, mà ngày đó, những tội nhơn Vô Gián cũng đều được vui vẻ, đồng đặng thác sanh cả.”
Chuyện thứ hai: Quang Mục cứu mẹ
Vô lượng kiếp về quá khứ có Đức Phật ra đời, hiệu là Liên Hoa Mục Như Lai, Đức Phật ấy thọ bốn mươi kiếp. Vào thời mạt pháp, có một vị La Hán phước đức cứu độ chúng sanh. La Hán gặp một người nữ tên là Quang Mục, nàng này sắm sửa đồ ăn cúng dường La Hán, và sau khi thọ cúng xong, La Hán đã nhập định tìm thấy mẹ nàng đang chịu đọa đày trong chốn địa ngục rất là khổ sở. Rồi Ngài khuyên Quang Mục rằng: “Ngươi phải đem lòng chí thành mà niệm đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai, và vẽ đắp hình tượng Đức Phật, thời kẻ còn người mất đều được phước lợi”. Sau khi nghe xong như vậy, nàng đã xuất tiền của, họa tượng Phật mà thờ cúng, nàng còn đem hết lòng thành kính và than khóc chiêm ngưỡng đảnh lễ tượng Phật. Sau đó nàng vì mẹ mình mà nàng phát nguyện như vầy: “Như thân mẫu tôi khỏi hẳn chốn tam đồ và hạng hạ tiện cùng thân gái, cùng kiếp không còn thọ những quả báo xấu đó nữa, tôi đối trước tượng của đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai mà phát lời nguyện rằng: Từ ngày nay nhẫn về sau đến trăm nghìn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà các hàng chúng sanh bị tội khổ nơi địa ngục cùng ba ác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng đó làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác đạo: địa ngục, súc sanh và ngạ quỷ.v.v… Những kẻ mắc phải tội báo như thế thành Phật cả rồi, vậy sau tôi mới thành bậc chánh giác.”
Và nhờ lời phát nguyện đó mà thân mẫu của nàng được Phật thọ ký sanh vào làm người phạm chí sống lâu trăm tuổi và sau đó vãng sanh về cõi nước Vô Ưu sống lâu đến số kiếp không thể tính kể.
Như vậy, muốn cứu được cha mẹ hay những người đã quá vãng thì nhất thiết thì người con phải là người chí hiếu, không sợ hao tốn cộng với lòng thành chí thành chí thiết, có thể phát cả nguyện lớn thì mới cứu được những linh hồn đang chịu đau khổ nơi chốn ác đạo.
Thế nhưng ngày nay, có những đám ma cha mẹ chết còn nằm đó, không những chúng không bỏ tiền của vào cùng lo hậu sự cho cha mẹ, mà chúng còn tranh dành tài sản, chia của trước khi liệm, không chia đồng đều thì chúng không cho liệm, hoặc có đám chúng nạnh nhau không chịu bỏ tiền làm đám cho cha mẹ, thì huống chi là bán nhà bán đất để mà lo cho cha mẹ… Như vậy há không thấy đâu lòng lắm ư. Thậm chí trong xã hội ngày nay, con cái còn dám giết chết cha mẹ để cướp đoạt tài sản.v.v… Hoặc có đám những người con bỏ chút ít tiền của ra cúng để cầu danh cầu lợi mà không một chút có tâm hiếu thảo nào trong đó, v..v..
Tóm lại, điều kiện cần thiết đầu tiên phải là một người con chí hiếu vì thương cha thương mẹ hoặc người thân đã quá vãng mà sẵn sàng bán đi nhà cửa, ruộng vườn để mà cúng dường cầu cho họ được thoát khỏi chốn khổ đau mà không hề hối tiếc.
- Chư Tăng phải thanh tịnh và hòa hợp
Đây là điều kiện thứ hai cũng vô cùng quan trọng, chúng ta phải biết cung thỉnh chư tôn đức Tăng có giới đức, có phẩm hạnh thì pháp sự chúng ta mới được thành tựu viên mãn. Ngày nay, tuy không còn những bậc Thánh Tăng, nhưng chỉ cần chư Tăng có giới hạnh thì sự chú nguyện của các Ngài cũng giúp hương linh thoát khỏi chốn u đồ.
Vì sao ta biết được?
Vì ở thế gian, những nhà thôi miên, họ chỉ cần tập trung tinh thần một chỗ thì họ đã có thể điều khiển được người khác rồi. Thì với sức định tĩnh của chư Tăng tập trung cầu nguyện thì làm sao mà không thành công được. Trong kinh Di Giáo, phần đối trị khổ dục buông lung Phật có dạy rằng: “Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện”, nghĩa là tập trung tâm một chỗ thì việc gì mà không xong.
Cho nên Phật dạy Tăng chúng trước khi thọ thực thì phải như vầy:
“Phải cầu chú nguyện cho người tín gia
Cầu thất thế mẹ cha thí chủ,
Định tâm thần quán đủ đừng quên,
Cho xong định ý hành thiền,
Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dâng.”
Như vậy, với lòng hiếu thảo của con cháu cộng với sự chú nguyện của Chư Tôn Đức thì sẽ được lợi lạc cho kẻ còn và người mất.
- Tất cả con cháu đều tập trung về đầy đủ và phải hòa thuận
Đây cũng là một điều kiện hết sức quan trọng và có thể nói là yếu tố cuối cùng giúp hương linh vãng sanh nhanh hay chậm. Vì sao?
Chúng ta trở về lịch sử một xíu sẽ thấy rõ điều này. Khi Mục Kiền Liên về xin Phật cứu mẹ thì Phật bảo rằng: Biết rằng lòng hiếu thảo của ông rất lớn nhưng không thể cứu được mẹ ông đâu, đó là thứ nhất, thứ hai, là dù có cộng ba cõi và sáu phương tụ lại cũng không phương cứu nổi mẹ ông. Mà chỉ có mười phương Tăng mới cứu được, nhưng phải là vào ngày mà Phật Đà hoan hỷ. Vậy thì chúng ta có thể tìm hiểu một vài mật nghĩa trong những điều kiện trên.
Để hiểu rõ điều này, chúng ta có thể lấy một ví dụ thực tế như vầy. Giả sử một gia đình có mười người con, mà duy nhất trong số đó chỉ có một đứa hiếu thảo với cha mẹ mà thôi. Thì mặc dù người con kia có hiếu thảo mấy đi nữa thì cũng không thể nào giúp cho cha mẹ vui, hoặc dù có dâng thức ăn sơn hào hải vị thì cha mẹ cũng không thể ăn nổi. Vì sao?
Vì làm sao có thể vui khi mà cha mẹ hay tin đứa con trai mình nó bỏ học đi theo bọn du đãng, đi đua xe, đi quậy phá xóm làng, hoặc đứa con gái thì bỏ nhà theo trai,v..v… Như vậy thì làm sao cha mẹ nào có thể yên tâm mà thưởng thức được các món sơn hào hải vị, dẫu biết rằng lòng đang đói nhưng nghĩ về những đứa con hư hỏng kia thì lòng cha mẹ trở nên như lửa đốt, há ăn nổi hay sao? Cho nên, trong trường hợp như vậy dù lòng hiếu thảo của một người con thì không làm sao giúp cho cha mẹ giải thoát được nổi ưu phiền phải không?
Vậy thì phải làm sao?
Nếu chúng ta là một người con hiếu thảo thì trường hợp như vầy chúng ta phải tập hợp và đoàn kết tất cả anh em lại, trên hòa dưới thuận một lòng thương yêu lẫn nhau và đều phải ngoan hiền thì cha mẹ mới giải thoát được cái nổi đau khổ trong lòng.
Cho nên, chúng ta phải biết điều này, khi cha mẹ qua đời thì tất cả con cháu đều phải tập trung về dù có ở bất cứ nơi phương trời nào, và khi tập trung về thì phải yêu thương lẫn nhau, hòa thuận với nhau, cùng nhau lo cho cha mẹ, có như vậy thì cha mẹ mới có thể sanh tâm hoan hỷ và giải thoát được nổi lo trong lòng.
Nên chúng ta thường thấy có người chết mà không nhắm mắt vì con cháu chưa về kịp vậy. Chúng tôi có lo một đám tang cho một vị Phật tử, mà cụ này đã chết mà vẫn không nhắm mắt, lúc bấy giờ chúng tôi mới hợp cả gia đình hỏi rằng lúc còn sống bà cụ có tâm nguyện gì chưa làm xong hay có điều gì mà trắc ẩn không. Thì sau một hồi suy nghĩ, cả nhà mới nhớ ra một điều là bà cụ có nói rằng: “Khi tao chết, tao phải rờ đủ mười một cái đầu thì tao mới nhắm mắt”. Vì bà cụ biết anh em không có hòa thuận nên sợ lúc chết có đứa về đứa không, nên bà mới nói như vậy. Nên lúc đó còn có một người con thứ tám chưa về kịp nên bà không nhắm mắt, và đúng thật như vậy, khi từng người con một vào lấy tay của bà cụ bỏ lên đầu và nói tên của mình thì khi đủ số mười một thì mắt bà liền nhắm lại. Như vậy, chúng thấy khi chết rồi mà tình thương của cha mẹ vẫn chưa an tâm về những đứa con của mình. Huống gì cha mẹ chết mà con cháu không thương yêu nhau mà lo tranh cải tài sản thì cha mẹ nào có thể ra đi nhẹ nhàng được, hay nói một cách khác là không thể nào giải thoát nổi.
Thứ đến tại sao gọi ngày rằm tháng bảy là ngày Phật Đà hoan hỷ, vì ngày ấy chư đệ tử của Phật hòa hợp, không ai đố kị, nghi ngờ lẫn nhau, ai có lỗi thì thành tâm xin sám hối, hoặc ai chỉ lỗi thì họ cũng hoan hỷ sám hối. Làm bậc thầy mà hàng đệ tử trên thuận dưới hòa, yêu thương lẫn nhau thì làm sao mà không hoan hỷ cho được. Cũng như vậy, nếu con cháu biết yêu thương trên hòa dưới thuận thì cha mẹ hiện tại sẽ được hoan hỷ, sống lâu hơn, còn nếu đã qua đời thì tâm cũng được hoan hỷ mà giải thoát.
- Bài học thực tiễn qua pháp Vu Lan
Qua pháp Vu Lan này chúng ta có thể rút ra những bài học như sau:
– Thứ nhất, là trong tiền kiếp bà Thanh Đề từng là một người Phật tử có tín tâm, biết cúng dường Tam Bảo, nhưng vì một chút sân giận do sự xúc phạm của một chú tiểu mà bà ta đã sanh tâm phỉ báng Tam Bảo. Như vậy, qua điều đó cho chúng ta thấy có hai điều cần phải chú ý. Điều thứ nhất, là ta không nên sân giận và phỉ báng Tam Bảo dù chuyện gì có xảy ra với chúng ta, chúng ta nên kiềm chế và nhẫn nhục để tránh đi những hậu quả xấu. Điều thứ hai, là sự tiếp đón Phật tử khi đến với chùa, chúng ta phải hết sức cẩn thận với những người Phật tử nghèo, vì lòng tự ái của họ rất cao, rất dễ bị tổn thương. Nếu chúng ta tiếp đón họ một cách hời hợt hoặc lơ là thì họ rất dễ thối tâm Bồ Đề, và có thể họ thề không đi chùa nữa là khác. Còn như Phật tử giàu mà ta đón tiếp họ không chu đáo thì cùng lắm là họ không đến chùa chúng ta nữa nhưng họ sẽ đi chùa khác. Còn người Phật nghèo một khi mà làm họ bị tổn thương thì họ sẽ không bao giờ đi đến bất chùa nào nữa, đó là tâm lý chung. Vì vậy chúng ta phải cẩn thận trong vấn đề này.
– Thứ hai, là chúng ta thấy Bà Thanh Đề vì sao mà rơi vào trong ngạ quỷ, địa ngục khổ đau. Vì do trong tiền kiếp bà sống với lòng tham lam bỏn sẻn, phỉ báng Tam Bảo, không biết bố thí cúng dường, tạo phước điền mà chỉ toàn làm việc ác. Như vậy, qua đó, cho chúng ta biết rằng tạo ác thì nhất định phải chịu đau khổ, nhân nào quả nấy không sai. Cho nên, chúng ta phải cẩn thận chớ có tạo ác nghiệp trong đời sống hiện tại mà sau này chết phải chịu khổ đau trong tam đồ ác đạo, đó là đều chắc chắn.
– Thứ ba, là trong luân hồi lục đạo ai làm nấy chịu chứ không ai thay thế cho ai được, như Ngài Mục Kiền Liên đắc thần thông mà vẫn không cứu được mẹ. Cho nên, chúng ta không nên có tâm ỷ lại, cậy quyền ỷ thế mà làm nhiều điều tội lỗi thì sau khi chết chúng ta sẽ tự lãnh lấy hậu quả.
– Thứ tư,là muốn cứu cha mẹ đã qúa vãng thì con cháu phải biết đoàn kết, yêu thương lẫn nhau, và phải hết lòng cùng nhau lo hậu sự khi cha mẹ qua đời, có như vậy thì cha mẹ mới yên tâm mà nhắm mắt thanh thản ra đi.
- Lợi ích của pháp Vu Lan Bồn
– Lễ Vu Lan Bồn nhắc nhở chúng ta biết tri ân, báo ân, biết công ơn tổ tiên, ông bà, biết công sanh thành dưỡng dục của cha mẹ.
– Lễ Vu lan bồn cứu độ ông bà, cha mẹ chúng ta ra khỏi cảnh trong chốn tam đồ, ác đạo.
II: BÁO HIẾU
- Định nghĩa:
Báo: là chỉ cho sự báo đáp, đền đáp, đền trả.
Hiếu: là chỉ cho sự hiếu thuận, hiếu hạnh của người dưới đối với người trên, hoặc của con cái, cháu chắt đối với ông bà cha mẹ của mình.
Như vậy, báo hiếu là nêu cao tinh thần, trách nhiệm của những người con, người cháu, phải biết hiếu kính đối với những bậc sanh thành hay những người có ân nghĩa đối với mình.
- Duyên khởi về pháp Báo Hiếu
Duyên khởi của sự báo hiếu được đề cập trong Kinh Báo Đáp Công Ơn Cha Mẹ, được bắt đầu bằng hình ảnh Đức Phật lạy một đống xương khô, là một hình ảnh tạo ấn tượng mạnh cho người đọc, hình ảnh ấy nói lên quan niệm về hiếu đạo một cách rộng rãi và báo trước một phương pháp báo hiếu đặc biệt của Phật giáo, khác với những quan niệm báo hiếu thông thường .
Đối với quan niệm của Đạo Phật, tất cả chúng sinh đều nằm trong vòng sinh tử luân hồi bất tận. Trong ITIVUTTAKA nói rằng: “Đống xương tàn của một người xuyên qua nhiều kiếp sống trong một chu kỳ, có thể vòi vọi như một ngọn núi“. Sự sinh tử, tử sinh lặp lại nhiều lần đã để lại trên những chặn đường luân hồi biết bao là xương thịt của mỗi chúng sinh. Căn cứ vào vòng luân hồn lẩn quẩn đó, Đức Phật dạy rằng: “Ta thấy tất cả chúng sinh không ai không phải là cha mẹ của nhau, hoặc ở trong quá khứ, hoặc ở hiện tại, hoặc ở tương lai”.
Cho nên, nhìn thấy một đống xương mà liên tưởng đến xương người thân của mình là điều không có gì lạ đối với giáo lý Phật Giáo.
Theo định luật luân hồi và duyên khởi, thì quan niệm về cha mẹ không còn hạn hẹp trong phạm vi gia đình bé nhỏ nữa. Với tầm nhìn sâu rộng giữa không gian vô tận và thời gian vô cùng thì tất cả chúng sinh đã từng làm cha mẹ, bà con quyến thuộc của nhau.
Với sự tồn tại chằng chịt tương hệ duyên sinh, Phật giáo không những đề cao công ơn của cha mẹ mà còn mở rộng phạm vi nhớ ơn và báo ân Quốc gia xã hội và tất cả chúng sinh. Mặc dù khái niệm về cha mẹ rộng rãi như vậy, nhưng trong Kinh chỉ đề cập đến cha mẹ hiện tại của chúng ta, đối tượng mà tất cả những người con hiếu thảo phải đền đáp thâm ân.
Cái hiếu trong Đạo Phật không phải đơn thuần là báo hiếu theo nghĩa thế gian cơm áo gạo tiền, mà cốt lõi cuối cùng là sự giác ngộ giải thoát cho cha mẹ ra khỏi kiếp luân hồi sanh tử.
- Tìm hiểu về công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ
Muốn báo đáp công ơn của cha mẹ thì trước tiên chúng ta cần tìm hiểu về những ân nghĩa sâu nặng của người đối với chúng ta, khi đã hiểu rồi thì mới tìm phương cách để báo đáp công ơn ấy.
- Công ơn cha mẹ qua ca dao tục ngữ Việt Nam
Dân tộc Việt Nam ta đã tiếp thu truyền thống hiếu thảo và đã biến thành sắc thái đặc biệt của dân tộc. Tinh thần ấy nó đã thấm nhuần trong mọi tầng lớp nhân dân. Mỗi khi nhắc đến công ơn cha mẹ không ai mà không nhớ đến câu ca dao:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.”
Vẫn biết công ơn cha mẹ cao dày như vậy, nhưng nếu chúng ta chưa chịu cực nhọc nuôi con thơ dại, thì chúng ta vẫn chưa thấm thía được nỗi khổ ấy một cách sâu xa như câu ca dao sau:
“Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ.”
Hoặc:
“Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân.”
“Biết thờ song thân”, thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của cha mẹ:
“Nuôi con buôn bán tảo tần,
Chỉ mong con lớn nên thân với đời.
Những khi trái nắng trở trời,
Con đâu là mẹ đứng ngồi không yên.
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con.”
Thật vậy, công ơn cha mẹ đối với chúng ta thật là không thể nào mà báo đáp cho xứng đáng, vì cha mẹ lo cho chúng ta từng miếng ăn giấc ngủ. Mỗi khi trái gió trở trời khiến con đau bệnh, hoặc một tiếng khóc, một tiếng giật mình, một tiếng ú ớ của con cũng đủ làm cho cha mẹ băng khoăn lo lắng, thức suốt đêm trường, nên có câu ca dao hát rằng:
“Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chầy thức đủ năm canh.”
Thế nên, nếu so sánh công ơn của mẹ hiền như non cao cũng chưa xứng đáng:
“Ai rằng công mẹ như non,
Thực ra công mẹ lại còn hơn non.”
Tuy rằng cha không gần gũi bên con như mẹ nhưng cha lúc nào cũng che chở cho ta, nếu ai mất cha rồi thì mới hiểu được sự lạc lõng vô cùng, cha là điểm tựa tinh thần vững chắc cho chúng ta, nên ca dao có câu:
“Con có cha như nhà có nóc
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.”
Hay:
“Còn cha gót đỏ như son,
Một khi cha khuất, gót con đen sì.”
“Còn cha nhiều kẻ yêu vì
Đến khi cha mất, ai thì yêu con.”
Trong Kinh Thicũng có nói đến công ơn của cha mẹ như vầy:
“Phụ hề sinh ngã
Mẫu hề cúc ngã
Ai ai phụ mẫu
Sinh ngã cù lao
Dục báo thâm ân
Hiệu thiên võng cực.”
Nghĩa là:
Cha sinh ra ta
Mẹ nuôi nấng ta
Thương thay cha mẹ
Sinh ta khó nhọc
Muốn báo ân sâu
Như trời cao vòi vọi.
Tình cảm của mẹ đối với con thật là êm đềm, ngọt ngào chẳng khác gì:
“Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.”
Lá cây trong rừng dẫu nhiều cũng không thể sánh bằng công ơn cha mẹ. Sao trên trời thật khó đếm, nhưng công của mẹ hiền lại càng khó đếm hơn những vì sao, nên có câu ví rằng:
“Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời cao,
Đố ai đếm được vì sao,
Đố ai đếm được công lao mẫu từ.”
Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, sinh lực hao mòn, nặng nhọc gánh chịu, làm sao ta có thể quên được tình mẹ bao la như biển cả ấy:
“Nhớ ơn chín chữ cù lao
Ba năm nhũ bộ, biết bao nhiêu tình.”
(Chín chữ cù lao: sinh, cúc, phủ, súc, trưởng, dục, cố, phục và phúc)
b.Công ơn cha mẹ qua Kinh Điển
Trong kinh Tâm Địa Quán, Đức Phật ví công ơn cha mẹ như núi cao biển rộng:
“Ân cha lành cao như núi thái.
Đức mẹ hiền sâu tợ biển khơi.
Dù cho dâng trọn cuộc đời.
Cũng không trả hết ân người sinh ta.”
Trong Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân, Đức Phật kể đến mười công đức của mẹ đối với con như sau:
- Chín tháng cưu mang khó nhọc.
- Sợ hãi, đau đớn khi sanh.
- Nuôi con cam đành cực khổ.
- Nuốt cay, mớm ngọt cho con.
- Chịu ướt, nhường ráo cho con.
- Sú nước, nhai cơm cho con.
- Vui giặc đồ dơ cho con.
- Thương nhớ khi con xa nhà.
- Có thể tạo tội vì con.
- Nhịn đói cho con được no.
Kinh Tâm Địa Quán: “Cha có ân từ, mẹ có ân bi; ân của từ phụ cao như núi, ân của bi mẫu sâu như biển lớn.”
Hoặc như trong Kinh Tương Ưng II, Tr. 208, Phật có thuyết giảng cho chúng đệ tử biết công ơn cao cả của mẹ hiền như vầy:“Này các Tỳ Kheo, sữa mẹ mà các Thầy đã bú khi lang thang trong sáu nẻo luân hồi, còn nhiều hơn là nước trong bốn biển đại dương”
Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm, Đức Phật cũng có kể đến công đức cao dày của cha mẹ như sau: “Này các Tỳ Kheo, nếu có người vai trái cõng cha, vai phải cõng mẹ, phải qua ngàn vạn năm, lo áo quần, cơm nước, giường nệm, ngọa cụ, thuốc men chữa bệnh, đại tiện tiểu tiện ngay ở trên vai, vẫn chưa thể báo đáp hết được. Tỳ Kheo nên biết, cha mẹ ân trọng, bồng bế, nuôi dưỡng, tùy lúc giữ gìn không lỡ thời tiết, xem như mặt trời, mặt trăng. Do phương tiện này mà biết ân này khó báo đáp.”
- Cách báo hiếu đối với công ơn cha mẹ qua kinh điển
Khi đã hiểu về những ân nghĩa sâu nặng của hai đấng sanh thành, thì bổn phận của một người con, phải tìm cách báo đền những ân tình ấy.
Hiếu thảo với cha mẹ là một đức tính tốt đẹp được mọi người ca tụng, đức tính ấy được xem như một nền tảng cho mọi đức hạnh, là nhân tố quan trọng để xây dựng đời sống hạnh phúc cho cá nhân, gia đình và xã hội.
Đối với Đạo Phật, thực hành hiếu thảo là con đường giải thoát của chánh pháp, là con đường của người Phật tử. Không hiếu thảo với cha mẹ thì không thể gọi là một người Phật tử chân chánh được. Bởi vì, người Phật tử thì phải thực hành các thiện pháp mà trong kinh “Nhẫn Nhục” nói rằng : “Điều thiện cùng tột không gì hơn có hiếu; điều ác cùng tột không gì hơn bất hiếu.”
Vì vậy, báo hiếu là bản chất của người Phật tử và đã trở thành truyền thống tốt đẹp của người Phật tử Việt Nam nói riêng và người Á Đông nói chung.
Quan niệm về hiếu đạo của Đạo Phật được thể hiện rõ nét qua kinh Kinh Vu Lan và Kinh Báo Ân Cha Mẹ, kinh mà không người Phật tử nào không biết và thường được đọc tụng vào dịp tháng bảy, lễ Vu Lan.
Ngoài ra, sự báo hiếu cũng được đề cập đến rất nhiều trong các kinh điển Phật giáo, như Trong kinh Phạm Võng Phật có dạy rằng: “Hiếu thuận với cha mẹ, sư Tăng, Tam Bảo. Hiếu thuận là pháp chí đạo. Hiếu gọi là giới, cũng gọi là cấm ngăn”
Để khuyến khích những người thiếu phước duyên, sinh ra đời không gặp Phật, đức Phật dạy trong Kinh Đại Tập rằng:“Sinh ra đời không có Phật, khéo thờ cha mẹ tức là thờ Phật”
Và Đức Phật lại so sánh ân đức của mẹ hiền với những sự vật to lớn của thiên nhiên như sau:
Quả đất người đời cho là nặng,
Ân đức mẹ hiền nặng hơn nhiều.
Tu Di người đời cho là cao,
Ân đức mẹ hiền cao hơn nhiều.
Gió lốc người đời xem là mau,
Nhất niệm mẹ hiền mau hơn nhiều.”
Kinh Đại Bảo Tích Phật cũng có dạy rằng:“Các ông thường phải hiếu dưỡng cha mẹ”. Lại nói:“Ở trong thế gian, cái gì là quý nhất? Cái gí là nghèo nhất? Bi mẫu còn sống là quí nhất, bi mẫu mất đi là nghèo nhất. Lúc bi mẫu còn sống là trăng sáng, lúc bi mẫu mất đi là đêm tối, vì thế các ông phải siêng năng nỗ lực tu tập, hiếu đưỡng cha mẹ.”
Trong kinh Thi-ca-la-việt, Đức Phật cũng có dạy con cái phải hiếu thảo với cha mẹ qua năm bổn phận sau:
- Cung kính và vâng lời cha mẹ,
- Phụng dưỡng cha mẹ khi cha mẹ già yếu.
- Giữ gìn thanh danh và truyền thống gia đình.
- Bảo quản tài sản do cha mẹ để lại.
- Lo tang lễ chu đáo khi cha mẹ qua đời
Ai làm tròn các bổn phận trên đây mới xứng đáng là người con hiếu thảo.
Người con phải có bổn phận hiếu dưỡng cha mẹ nhưng phải báo hiếu như thế nào? Theo Phật giáo, có hai cách báo hiếu hay còn gọi là hai phương diện là vật chất và tinh thần.
- Báo hiếu về vật chất:
Người Phật tử phải hầu hạ vâng thờ, thay làm các việc nhọc nhằn, săn sóc miếng ăn thức uống, áo quần, chiếu giường, chỗ nghỉ ngơi, không để cho cha mẹ thiếu thốn, lo nghĩ. Song, người Phật tử phải sáng suốt trong khi báo hiếu, không nên quá chiều theo ý muốn của cha mẹ mà tạo những nghiệp dữ, như sát nhân, hại vật, gây tội lỗi để làm cho cha mẹ sung sướng trong vật chất. Làm như thế không phải là báo hiếu mà chính là bất hiếu, vì đã gây tạo tội lỗi thêm cho cha mẹ và cho mình. Vả lại, báo hiếu về vật chất, dù đầy đủ cho mấy đi nữa, cũng chẳng qua làm cho cha mẹ được vui vẻ thỏa mãn trong một kiếp hiện tại mà thôi. Cái vui vật chất là vui giả tạm, vui trong vòng sanh tử luân hồi. Vậy sự báo hiếu về vật chất chưa phải là đầy đủ nhất.
- Báo hiếu về tinh thần:
Người Phật tử phải tiến lên một tầng nữa, là lo báo hiếu về tinh thần. Báo hiếu về tinh thần là làm sao cho tinh thần của cha mẹ được nhẹ nhàng, cao thượng và đi dần đến chỗ giải thoát. Phật tử phải khuyên cha mẹ tin nhơn quả tội phước và quy y Tam Bảo, bố thí phóng sinh, niệm Phật, làm các việc lành, giữ giới và tu nhơn giải thoát. Có như thế, thì không những trong hiện tại cha mẹ được yên vui, thanh tịnh và đời sau cũng được nhiều phước báo, và sinh trong cảnh giới an vui nhẹ nhàng.
Kinh Phật Thuyết Hiếu Tử nói: “Con cái phụng dưỡng cha mẹ, dùng cam lồ trăm vị làm dễ chịu miệng cha mẹ; dùng âm thanh nhạc trời làm êm tai cha mẹ; dùng y phục tối thượng làm sáng rở thân cha mẹ, cũng chưa được gọi là hiếu. Làm cho song thân bỏ ác làm làm, kính tin Tam Bảo, giữ năm giới, nhân từ không giết hại sinh mạng, trong sạch không trộm cắp, trinh tiết không dâm, giữ chữ tín không lừa dối, hiếu thuận không say mới gọi là hiếu”
Trong Kinh Tăng Chi Đức Phật dạy: “Những ai đền ơn cha mẹ bằng cách nuôi dưỡng, dâng cúng của cải vật chất tiền bạc, thì không bao giờ đủ để đáp đền ân cha mẹ. Nhưng này các Tỳ kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin Tam Bảo, thì khuyến khích cho có lòng tin Tam Bảo, đối với cha mẹ sống tà giới, thì khuyến khích vào chánh giới, đối với cha mẹ sinh khởi lòng tham, thì khuyến khích bố thí, đối với cha mẹ tà kiến thì khuyến khích vào chánh kiến, cho đến như vậy, này các Tỳ kheo, là làm đủ và đáp đền đủ cho cha và mẹ”.
Qua đó cho chúng ta thấy rằng, Kinh nào Đức Phật cũng dạy chúng ta phải hướng về con đường chánh pháp, và chỉ có con đường này mới có thể đưa chúng ta và người thân thoát khỏi khổ đau sanh tử luân hồi. Theo Đạo Phật sự đau khổ thật sự chính là vô minh, lòng tham sân si đó là tác nhân gây đau khổ triền miên từ đời này đến đời khác. Chỉ có chánh pháp, chỉ có trí tuệ mới giúp cho cha mẹ loại trừ gốc rễ đau khổ.
Báo hiếu cho cha mẹ bằng vật chất và tình cảm thông thường chưa phải là biện pháp hoàn hảo. Vật chất hay những cảm giác lạc thọ của vật chất chỉ tạo thêm sự thèm khát và không bao giờ thoả mãn, sự đau khổ do đó không bao giờ chấm dứt được.
Người Phật tử thấy được bề sâu của lý nhân quả nghiệp báo cho nên khuyến khích cha mẹ thực hành thiện pháp, tạo cơ hôi cho cha mẹ phát khởi thêm thiện tâm để chuyển đổi nghiệp nhân xấu ác, xây dựng cho cha mẹ mình một cuộc sống bảo đảm hạnh phúc lâu dài trong hiện tại và cả tương lai.
- Vì cha mẹ thực hành tịnh giới, bố thí và làm các công tác lợi ích cho xã hội.
Sự thực hành thiện pháp của chúng ta như giữ gìn nếp sống đạo đức, mở rộng lòng bố thí, tích cực làm các điều thiện giúp ích mọi người. Đó là một phương cách làm gương mẫu để tạo cho cha mẹ được ảnh hưởng thiện duyên của con, làm tăng cường và củng cố thiện tâm của cha mẹ. Mình khuyến cáo cha mẹ thực hành thiện pháp mà bản thân mình không thực hành thiện pháp thì sự khuyến cáo của mình sẽ mất tác dụng. Hơn nữa, khi thực hành thiện pháp, người con luôn hồi hướng công đức cho cha mẹ, tức là sử dụng năng lực thiện tâm của mình hướng về cha mẹ, nó có tác dụng hỗ trợ làm cho cha mẹ tăng trưởng thiện tâm.
Mặt khác, mối quan hệ tương ứng giữa tâm lý của cha mẹ và con cái rất tế nhị và đặc biệt. Luồng tâm thức giao cảm giữa cha mẹ và con cái rất dễ dàng ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Cho nên, hành vi đạo đức của con rất dễ tác động đến lòng cha mẹ, như đã nói, con cái là niềm vui, là sự hy vọng của cha mẹ, con cái rất được cha mẹ chiều chuộng và làm theo ý thích của con. Tâm lý tuỳ thuận con cái là mảnh đất tốt để những người con gieo hạt giống thiện pháp cho cha mẹ bằng chính hành vi ngôn ngữ của mình.
- Truyền bá tư tưởng hiếu đạo cho mọi người:
Truyền bá tư tưởng hiếu đạo cho mọi người là một phương pháp bổ sung cần thiết cho các phương pháp trên. Tác dụng của nó trước hết là tăng cường sức mạnh hiếu tâm của chính bản thân mình. Tâm lý hiếu hạnh cũng như các tâm lý khác đều phát sinh và tồn tại có điều kiện, vì vậy nếu chúng ta không tạo điều kiện hâm nóng thường xuyên bằng những điều kiện thích hợp, lâu ngày tâm lý hiếu hạnh bị phai nhạt, có thể nói:“Xa mặt cách lòng”.
Như vậy, truyền bá tư tưởng hiếu đạo có tác dụng, trước hết là củng cố sức mạnh hiếu tâm của người con thường xuyên. Mặt khác, như đã nói Đạo Phật quan niệm tất cả chúng sinh là cha mẹ của mình ngoài việc báo đáp thâm ân cha mẹ của mình hiện nay, người Phật tử còn có nhiệm vụ báo hiếu cho cha mẹ nhiều đời của mình bằng phương thức gián tiếp. Truyền bá tư tưởng hiếu đạo để cho những người con học tập và thực hành phương pháp báo hiếu đúng chánh pháp, đem đến lợi ích cho tất cả những người cha, người mẹ khác trong xã hội. Từ đó xây dựng một nền tảng đạo đức cơ bản cho xã hội con người. Tâm hiếu là một hành động có tính văn minh, văn hoá. Truyền bá đạo hiếu sẽ tạo nên một truyền thống văn hoá tốt đẹp, để xã hội có điều kiện xây dựng hạnh phúc cho con người.
- Những tấm gương hiếu thảo.
Tâm hiếu là tâm Phật, nên những tấm gương hiếu thảo của những người con vì song thân quên mình đã được sách vở lưu truyền đến muôn đời. Nay xin lược kể vài chuyện để chúng ta cùng suy gẫm và học hỏi theo gương hiếu thảo của người xưa.
Nói đến đức hiếu hạnh có thể được đúc kết từ những người con có tấm lòng hiếu thảo tột bực được ghi lại trong “Nhị Thập Tứ Hiếu”. Ngoài ra, còn những tấm gương khác mà chúng ta có thể học hỏi được biết đến như sau:
– Vua Lý Nhân Tông (1072 – 1127) đã bãi dịp yến ẩm tết Trung Nguyên của bá quan đối với mình, để làm lễ Vu Lan, cầu siêu cho mẹ theo ý nghĩa Phật giáo.
– Vua Lý Anh Tông (1128 – 1138) cũng bỏ yến ẩm chúc mừng của bá quan ở điện Thiên Ân để thiết lễ Đại Trai Đàn cầu siêu cho phụ hoàng là vua Lý Nhân Tông theo nghi lễ của Phật giáo.
– Vua Trần Anh Tông (1293 – 1314) một hôm nọ say rượu nằm trong cung. Khi ấy Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông ở cung Thiên Trường về thăm. Bách quan hội đủ nhưng không thấy vua Anh Tông ra chầu, Phụ hoàng Nhân Tông liền ra lệnh cho trăm quan về phủ Thiên Trường lập triều ban. Khi tỉnh rượu thấy vắng vẻ, vua hỏi cớ sự, vội vã về Thiên Trường, sai các quan viết sớ dâng lên quỳ trước vua cha chịu tội và từ đó vua bỏ hẵn không dám uống rượu nữa.
– Vua Tự Đức (1829 – 1882) có lần đi săn chim ở rừng Thuận Trực, An Nông gặp mưa lũ nên thuyền về chậm. Thái Hậu vội sai quân đem thuyền đi đón. Khi về đến nội cung, vua biết lỗi nên vội chỉnh trang y phục, vào chầu Mẫu hậu. Thái Hậu giận ngồi quay mặt vào vách. Vua vội nằm xuống gác cây roi mây lên lưng chịu tội. Thái Hậu vất bỏ cây roi và quở trách vua nặng lời. Đêm đó Vua thức suốt đêm để phê chuẩn cho những công văn mà ngày đi săn chưa phê duyệt. Từ đó về sau vua không bao giờ bỏ bê việc triều chính nữa.
– Ở Huế, có vị chơn tu là Hoà thượng Nhất Định (1784 – 1847), Ngài vừa tu hành vừa phụng dưỡng mẹ già. Khi mẹ Ngài bệnh nặng, thầy thuốc nói chỉ có ăn cá thì mới có thể lành bệnh. Hoà Thượng tuy đã sáu mươi tuổi nhưng phải lên chợ Bến Ngự mua cá về am An Dưỡng để phụng dưỡng mẹ già, bất chấp mọi tiếng chê bai của mọi người. Vua Tự Đức nghe chuyện này cảm động phong tặng tên chùa hai chữ vàng là Từ Hiếu. Hai chữ này xuất xứ từ Thành ngữ Mẫu Từ Hiếu Thảo (mẹ hiền sanh ra con hiếu thảo). Câu chuyện đến nay vẫn còn lưu truyền trong nhân gian.
- KẾT LUẬN
Ngày rằm tháng bảy, ngày báo hiếu cha mẹ đã trở thành truyền thống tốt đẹp của Phật giáo, bắt nguồn từ vị đệ tử ưu tú của Phật – Ngài Mục Kiền Liên. Phương pháp báo hiếu như đã trình bày trong kinh Vu Lan, chủ yếu dựa vào năng lực tâm linh thanh tịnh của Chư Tăng trong ngày Tự Tứ, năng lực ấy tác động vào tâm thức người cha người mẹ đang đau khổ. Qua ảnh hưởng của năng lực đạo đức ấy mà cha mẹ hiện tại hay quá khứ được siêu thoát và an lành. Điều đó còn mang ý nghĩa rằng sự hiện hữu của đạo đức sẽ cải tạo được sự lầm lỗi và hoàn cảnh khốn đốn của con người, tạo cho con người một niềm tin và sức sống của chính bản thân mình, xây dựng được cuộc sống an vui.
Trong kinh Vu Lan mô tả nghiệp quả của mẹ Ngài Mục Kiền Liên bị đoạ đày vào ngạ quỷ, vì lúc sanh tiền bà quá bỏn xẻn, tham lam. Mặc dù Ngài Mục Kiền Liên đã chứng được thần thông, thấy suốt ba cõi, nhưng Ngài cũng không thể tự mình cứu mẹ ra khỏi chốn âm cung, mà phải nhờ sức chú nguyện của Chư Tăng thập phương trong ngày lễ Vu Lan Tự Tứ.
Qua tư tưởng hiếu đạo của kinh Vu Lan và Kinh Báo Ân Cha Mẹ, chúng ta đã thấy tinh thần hiếu đạo là một trong những pháp môn tu tập của người Phật tử. Pháp môn ấy đem lại đạo đức và hạnh phúc cho con người và xã hội.
Hơn ai hết, chínhĐức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thể hiện trọn vẹn tinh thần hiếu đạo tri ân và báo ân một cách trọn vẹn nhất.
“Kính lạy Đấng giáo chủ ba cõi
Bậc đại hiếu Thích Ca
Nhiều kiếp báo ân sâu
Do vậy thành Chánh Giác.”
Lời của Đức Phật dạy làm sáng tỏ thêm đạo đức và trí tuệ ở thế gian này, để cho chúng ta thấy được rằng không có hạnh phúc nào lớn hơn tình thương của cha mẹ, và không có phước báo nào lớn bằng phước báo phụng dưỡng cha mẹ; không có tội lỗi nào nặng bằng tội bất hiếu với cha mẹ.
Hôm nay ngày Vu Lan lại đến trong sự hân hoan mong đợi của người con Phật. Chúng ta thành tâm hướng về Tam Bảo nguyện cầu năng lực của chúng Tăng gia hộ cho ông bà cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp sớm tỉnh giác lìa mê, sanh về cõi Phật; cha mẹ hiện tại được khỏe mạnh, trường thọ và tin hiểu sâu về Phật pháp, tinh tấn niệm Phật, sống hạnh Phúc, khi xả bỏ xác thân thì được an nhàn tự tại.
Tất nhiên sự báo hiếu không những chỉ nhắm vào một lễ Vu Lan, và khong chỉ riêng mỗi năm chỉ tổ chức một lễ Vu Lan. Nếu đã là người con chí hiếu thì phải luôn hiếu thảo với cha mẹ mọi lúc mọi nơi chứ không phải đợi đến ngày Vu Lan mới thể hiện lòng hiếu. Nhưng trong lúc báo hiếu, phải có quan niệm sáng suốt, đúng đắn thì mới đưa cha mẹ đến chỗ an vui.
Đạo Phật không phải là đạo hiếu, nhưng hiếu thảo là nền tảng không thể thiếu trong Đạo Phật. là những người con của cha mẹ, thì xin mọi người hãy biết trân trọng cha mẹ mình, đừng để nuối tiếc sau này:
“Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc
Đừng để buồn trên mắt mẹ nghe không
Để một mai khi mất cánh hoa hông
Khỏi nuối tiếc những ngày vui bên mẹ.”
Chúng ta hãy để cho cha mẹ khóc bằng những giọt nước mắt vui sướng và hãnh diện khi ta nên người, đừng để cho cha mẹ khóc bằng những giọt nước mắt đau thương buồn tủi.